Đêm đêm, trong những giấc mơ của thời thiếu nữ, tôi thường mơ thấy người ấy sau này của mình có bàn tay dịu dàng như mẹ tôi. “Người ấy” sẽ nhẹ nhàng gỡ mớ tóc rối như rễ tre cháy xém, rối như canh hẹ của tôi. Lồng ngực “người ấy” sẽ lau khô nước mắt cho tôi khi hờn dỗi… Tóm lại, “người ấy” sẽ yêu tôi như Mẹ. Tội nghiệp thay giấc mơ màu hồng của đứa con gái côi cút. Rồi tôi hỏi bà nội: “Bà ơi, sau này chồng cháu có chiều cháu như Mẹ cháu ngày trước và như bà bây giờ không”? Bà cười – mắt ngấn nước: “Phận đàn bà như hạt mưa sa. Nên chọn thằng nào có mẹ chồng hiền mà nhờ”.
Hai ba tuổi, tôi rời mái trường đại học và mối tình giảng đường của mình. Bơ vơ. Tôi viết những câu thơ lấp loáng nước mắt. Hai năm đi làm dài bằng 10 năm đi học. Ngập chìm giữa mệt mỏi và lo toan. Vẫn những cái Tết chạy trốn ngôi nhà của cha tôi – tổ ấm không có hộ khẩu của tôi.
Hai lắm tuổi, anh đến! Anh nói với tôi: “Mẹ anh hiền lắm. Về với anh, em sẽ là bà hoàng ở ngôi nhà của mình trong ngày Tết”.
Tôi khóc. Bàn tay anh vỗ về mái tóc rễ tre, xém nắng đẫm sương của tôi. Lồng ngực anh cũng đong khô được nước mắt tủi hờn và hạnh phúc của tôi. Tôi quyết chí ra xứ Bắc làm dâu…
… Buổi đầu về quê anh, tôi ngợp người trước ngõ gạch hun hút và những lời chào hỏi. Có những lời xì xào: “Gầy mà nhèo nhẽo thế thì làm ăn gì?”. Mẹ của anh ngồi trên giường nơi góc nhà. Áo nâu, vành khăn nâu quấn đầu. Bà cứ như không nghe thấy gì. Chỉ chăm chút với chiếc cơi trầu bằng đồng bóng loáng của mình… Rồi bà nhìn tôi như nhìn đứa cháu nội đi xa nhà mới về: “Thay quần áo đi con, rồi ra ăn cơm”. Đêm đó, tôi ngủ với bà, cuộn tròn, ủ vào ngực áo nồng vui vôi trầu, bỗng thấy thổn thức nhớ bà nội. Đêm đó, tỉnh giấc thấy quạnh người – bà đang quỳ trước phản, phía trên kia là bát hương có ảnh chồng. Tôi nghe tiếng khấn lầm rầm: “Ông ơi, tôi xin ông thương lấy đứa con gái nhà ai trong miền Trung xa xôi. Chở che cho nó”.
Sáng ra, bà chiếc nồi đất, bỏ mấy quả bồ kết và hai gáo nước mưa, đốt rơm đun nước cho tôi gội đầu. Mắt kém, bà rờ rẫm từng sợi tóc tôi rồi than: “Con gội đầu bằng cái gì mà cứng queo vậy”. Chiếc chậu bằng đồng sóng sánh nước mắt tôi: “Thật a mẹ?”. Rồi bà nói khe khẽ: “Cố lên con ạ, làm mẹ kế khó lắm”. Tôi cười vô tư, chẳng nghĩ gì. Xưa nay, hình như chỉ con chồng khổ vì mẹ kế chứ có ai nói mẹ ghẻ khổ vì con chồng bao giờ đâu.
Có lẽ như điềm báo trước, đám cưới của tôi quá nhiều nước mắt…giữa bữa cỗ. Ông anh rể thượng tá quân đội cất lời: “Tục lệ mỗi nơi một khác. Em nó về đây phải nhập gia tuỳ tục. Phải học lễ nghĩa của nhà quê chúng tôi. Cả nhà tôi ai cũng gia giáo, ai cũng Đảng viên. Mợ nó phải phấn đấu”. Ông cậu giáo sư, tiến sĩ của tôi nhìn cháu gái, lặng ngắt. Mợ tôi khóc nghẹn đáp lời: “Dạ, cháu nó đây tuy mẹ mất sớm nhưng cũng được ăn học đến nơi, đến chốn”. Bà cô cũng giáo sư đại học của tôi ra khóc lén nơi gốc ổi. Hai cô bạn gái cùng trường Đại học Huế của tôi cứ thế sụt sùi.
Tôi khóc khi nhìn theo chiếc xe đưa họ hàng bạn bè trở lại Hà Nội. Đêm đó, tôi mới để ý: cánh đồng quê anh rộng mênh mông. Những cánh cò chới với trên nền trời hoàng hôn sẫm xám… Mẹ chồng đón tôi nơi đầu ngõ gạch, lau nước mắt cho con dâu bằng chiếc khăn nâu nhỏ: “Con vào ăn cơm kẻo anh chị chờ”.
Đêm đó, họp gia đình. Ai cũng có ý kiến. Anh trưởng. Chị gái. Anh rể. Cậu cô. Chú dì. Tôi chẳng còn nhớ lắm mọi người nói gì. Chỉ biết chồng tôi chốc chốc lại đáp lời: “Dạ, các em xin vâng lời các bác”. Chị gái anh cao giọng: “Cậu hứa đi – phải coi con hơn vợ. Không lấy vợ này thì lấy vợ khác. Con cái là do mình đẻ ra. Là dòng giống của cái nhà này”. Chồng tôi: “Em xin hứa”. Hôm đó, tôi vừa chẵn hai lăm tuổi, ba tháng mười hai ngày. Và đứa con gái lớn của chồng tôi 14 tuổi… Tôi nhắm mắt lại để thấy hình ảnh chồng tôi cúi gắm xuống… Trong khoảng khắc ấy, tôi nhớ Huế và thủa thiếu thời của mình đến nhói lòng. Huế trở nên xa lắc và giấc mơ thiếu nữ tan như bọt xà phòng… Bỗng lúc đó, mẹ chồng tôi cất tiếng: “Sao các con nói nhiều đến thế? Em dâu con còn trẻ lắm. Sự đời thì dài. Rồi em nó sẽ biết dần”. Tôi oà khóc tức tười, ôm bà: “Mẹ ơi”.
Tôi biết dần thế nào là làm vợ. Làm mẹ ghẻ. Tôi không còn mặc quần trắng. Những chiếc áo dài nằm lặng im trong tủ. Sách vở văn chương và Huế trở thành kỷ niệm xa lắc. Tôi đi nhanh. Nói nhanh. Ăn nhanh. Và mắt ráo dần. Biết đếm tiền nhanh. Biết góp 10 chồng tiền lẻ 1000 thành 100.000. Biết vay tiền ngân hàng mua đất chờ thời… Chồng tôi đã giữ được lời hứa với gia đình: đàn ông trọng mẹ, thương con mới là người tử tế. Bây giờ, tôi cũng nghĩ thế. Chẳng qua phận tôi bạc, gửi giấc mơ tuổi thanh xuân vào một người đàn ông quá ít tương lai và nặng trĩu quá khứ.
Ngày tôi sinh con, mẹ chồng tôi lụi cụi leo lên tầng 5 chăm dâu, chăm cháu. Bấy giờ tôi thấu hiểu lòng mẹ. Bà gọi con bé lớn ra bảo khẽ: “Cháu phải thương dì, thương em bé. Con bé con là máu mủ của mày. Còn kế phụ, kế mẫu là phải trọng”.
Rồi bà lần lưng quần, trao cho tôi gói tiền: “Mẹ cho con tạ gạo mà nằm sinh. Đừng vội đi bán hàng sớm mà khổ. Con ơi, mẹ dặn: mày hay khóc lắm. Đang non ngày có tủi thân, tủi phận cũng đừng khóc mà sau này đau đầu đấy con ạ”. Những đồng tiền ấm và nóng. Đến giờ nhớ lại, nước mắt tôi cũng ấm và nóng.
Ngày bà mất, chồng tôi đi vắng. Tôi cùng anh chồng lo chuyện tang gia…Đêm đến, khi chỉ còn đám làm cỗ ngồi đánh tổ tôm, tôi mới thủ thỉ khóc cùng mẹ bên quan tài. Người mẹ thứ 2 trong đời của tôi cũng đã ra đi. Sẽ chẳng còn “Lão phật gia” công bằng bênh vực tôi. Bà đã yêu tôi bằng tấm lòng của một người mẹ. Người mẹ thấu hiểu nỗi đau thân phận đàn bà mà số kiếp tôi phải chịu. Tôi thấy mình thực sự bơ vơ…
Cách đây một tháng. Giỗ bố chồng tôi… Trong mắt họ hàng gia tộc chồng, bây giờ tôi đã là dâu hiền, vợ đảm. Con gái tôi đã trở thành niềm tự hào của họ nội với tất cả những gì mà tôi đem đến cho nó và sự bù trừ của ông Trời ban tặng hai mẹ con tôi. Nhưng ông anh rể đại tá không thể nào chấp nhận đứa con gái mồ cồi, nhà quê là tôi lại có địa vị ấy trong gia đình. Đám giỗ này, ông lại kiếm cớ và rượu để chửi. Và câu chuyện 13 năm lặp lại… Chồng tôi lại cúi gằm xuống mâm rượu. Còn con gái tôi thì khóc tức tưởi.
Tôi không khóc. Không nói. Chỉ thắp một nén nhang lên ban thờ. Đôi mắt trong ảnh của mẹ chồng nhìn tôi đau đáu. Tôi biết, bà thấu hiểu vì sao tôi không rời gia đình này trong lúc con trai bà đã bóp chết giấc mơ thời thiếu nữ của tôi bằng tất cả sự yếu đuối, cạn cợt đến bất lực của mình. Vì sao tôi lại có thể đi qua chừng ấy tháng năm ở nơi xứ người với tất cả sự can trường đến vậy. Đôi mắt bà như lòng đất bao dung ủ tôi vào lòng… Tôi lại gọi: “Mẹ ơi!” Mẹ của riêng tôi chứ không phải là Mẹ chồng.
Khi gả về nhà anh, chị mười sáu, anh lên năm tuổi.
1. Cảnh nghèo.
Anh là con độc đinh, cha mẹ quý hơn vàng, chỉ tiếc anh quá nhiều bệnh tật. Ông nội ở ngoài buôn bán nhỏ, gom được tí tiền. Bà nội tin Phật, một lòng thành kính, một lần bà nội xin được một quẻ xăm giữa miếu ngụt khói hương, nói phải cưới một cô vợ hơn tuổi cho thằng cháu đích tôn thì nó mới qua được vận hạn. Bà nội đương nhiên tin vào lời Phật dạy chúng sinh nơi khói hương vòng quanh chuông chùa ngân nga, bởi thế ông bà nội bàn tính, đưa lễ hậu, kháo tin quanh vùng tìm mối nhân duyên cho anh.
Nhà chị năm miệng ăn, trông vào mấy sào ruộng bạc màu, chỉ đủ miếng cháo, mùa đông, cha chị vì muốn kiếm thêm ít đồng ra đồng vào, theo người ta lên núi đập đá, tiền chưa kiếm được, nhưng bị đá vỡ dập lưng, tiêu hết cả gia sản, bán sạch cả lương thực, bệnh không khỏi. Hằng ngày cha chị chỉ có thể nằm trên giường, muốn chết mà chẳng chết cho. Hai đứa em trai còn chưa đủ tuổi lớn. Nỗi khổ sở của gia đình, nỗi ai oán của mẹ, làm những năm thời con gái của chị mang một gánh nặng tâm tư.
Vì thế bà mối đến, réo rắt: "Gả cô nhà đi, tiền thì để dưỡng bệnh cho cha, còn đỡ đần được tiền tiêu trong nhà".
Mẹ chị lắc đầu, nào có ai muốn đẩy đứa con gái thơ dại của mình vào lò lửa? Nhưng chị xin: "Mẹ, cho con đi nhé, chỗ tiền ấy có lẽ chữa khỏi cho cha!"
Tiếng kèn đón dâu thổi váng đầu ngõ trước ngôi nhà nhỏ của chị. Bố chị nằm trên giường tự đấm ngực mình; Con gái phải đem đổi tuổi thanh xuân, chấp nhận lấy một người chả xứng với mình chỉ vì cứu tôi và cứu gia đình này thôi ư! Mẹ chị chảy nước mắt, tự tay mình cài lên tóc con gái cây trâm gài. Chị mặc áo đỏ đi giày thêu cúi lạy cha mẹ, tự buông tấm khăn đỏ che đầu mình, nước mắt lúc đó mới chảy ra, trộn phấn má hồng.
Từ đó, số phận cuộc đời chị và hôn nhân giao cả về tay một đứa con nít vô tri 2. Cười xót xa.
Bà mẹ chồng trẻ tuổi không phải là người khắt khe khó tính, bố chồng ở xa cũng chẳng cần chị tam khấu cửu bái, lạy chào dạ vâng. Anh vâng lời mẹ gọi chị là Chị gái. Hằng ngày, chị ngoài việc giúp mẹ chồng chăm ruộng rau và làm xong việc nhà, thì cắt thuốc cho chồng, sắc thuốc, may áo cho chồng, giặt giũ, cho chồng chơi, cho chồng ngủ, có lúc, anh ho suốt đêm, sốt cao, chị thức cả đêm chườm khăn hạ sốt, cho anh uống nước, uống thuốc.
Hàng xóm láng giềng gặp chị, chị thường cúi đầu lặng lẽ, không nói, vội vã đi qua. Không biết là ứng với quẻ xăm của Phật, hay nhờ chính sức mình mà anh vượt qua được bệnh tật, dưới sự chăm chút của chị, anh lần lượt chiến thắng mọi cơn bệnh tật lớn nhỏ: Ho gà, viêm màng não, lở loét v.v...
Dần dà, những tình cảm anh dành cho chị vượt quá tình cảm dành cho mẹ mình. Giữa những kẽ hở lúc bận rộn, hoặc khi anh đã ngủ say, chị thường khóc nước mắt nóng rồi thờ thẫn tự hỏi mình: "Đây là hôn nhân của mình ư, đây là chồng của mình ư?"
Đến tuổi đi học, chị may cho anh một chiếc túi xách, dắt tay anh đến lớp. Những đứa trẻ trong và ngoài thôn thường vây lấy chị hát to: "Cô con dâu, cô con dâu, làm cái gì? Tắt đèn, thổi nến, lên giường..."
Chị không biết trong lòng mình là nỗi đau hay nỗi buồn, cúi gằm xuống, mặt đỏ lên rồi trắng bệch, trắng rồi đỏ. Một buổi tối, anh nằm trong chăn nói:
"Chị ơi, em yêu chị!"
Chị lại là vợ. Vợ lại là chị. Chị nhìn gương mặt ngây thơ non nớt của anh, im lặng. Lần đầu tiên chị cười đau khổ.
3. An ủi nhỏ nhoi.
Cha anh ở ngoài buôn bán nhiễm phải thói cờ bạc, chỉ vài ngày mà thua sạch bách bao gia sản tích cóp khổ sở lâu nay. Sau khi bố mẹ chồng chửi bới cãi vã ầm trời, bố chồng chị dứt áo bỏ nhà ra đi, từ đó không ai gặp lại ông nữa, nghe người ta nói khi đó ông bị lính bắt đi làm phu. Lúc đó trên người mẹ chồng chị còn vài thứ trang sức, cầm đi đổi lấy vài đồng tiền.
Mẹ chồng và chị bàn nhau mua lấy ba mẫu đất. Không thể mượn người làm nữa rồi, mẹ chồng con dâu xoay ra xắn ống quần lên lội ruộng, ngày còn ở nhà chị từ nhỏ đã giúp cha mẹ làm ruộng, khổ sở gì chị cũng đã nếm trải qua. Chỉ khổ cho bà mẹ chồng chị xưa nay chưa từng phải trồng lúa bao giờ.
Một nhà vốn giàu có bỗng chốc hoá bần cùng, đàn ông bỏ đi không tăm tích, bà mẹ chồng vừa đau vừa hận, lại thêm việc làm ruộng nặng nhọc, làm bà kiệt quệ, ốm rồi không dậy nổi. Trước lúc lâm chung, bà kéo tay chị, gần như van vỉ nói:
"Nó hãy còn nhỏ dại, xin cô chăm sóc nó, nếu cô muốn ra đi, xin hãy đợi lúc nó trưởng thành".
Chị nắm chặt tay anh. Từ đó, số mệnh của anh lại bị chị dắt đi.
Chị là người phụ nữ trọng tình nghĩa, chưa từng hứa gì, nhưng chị vẫn cùng anh như cũ. Từ đó về sau, ngay cả chính chị cũng không nhận ra mình rốt cuộc là vợ, là chị hay là mẹ của anh? Chị quần quật không ngày không đêm, làm việc để anh tiếp tục đi học. Cuộc sống của họ trôi qua khổ nhọc nhưng bình lặng giữa tình chị em sâu nặng, tình yêu bao la như tình mẫu tử bền chặt.
Khi anh tốt nghiệp trung học thi đỗ vào một trường Đại học sư phạm, chị thay anh thu xếp hành lý, lại một lần nữa đưa anh tới trường. Chị nhìn cậu con trai trẻ măng vừa qua tuổi dậy thì, do chính tay mình nuôi lớn từ nhỏ đến giờ, chị chỉ dặn anh hãy cố mà học hành, ngoài ra chị không nói thêm điều gì nữa.
Nhưng anh vẫn nói: "Chị, chờ tôi quay về nhé!"
Tim chị đập nhẹ một nhịp, nhưng mặt vẫn bình thường, có điều khoé miệng ẩn một nụ cười hân hoan rất nhẹ mà người khác khó nhìn thấy. Khoé cười ấy không phải vì câu nói của anh, mà vì những gì chị bỏ ra, đã được đáp đền lần đầu.
4. Kiếp này.
Chị vẫn làm ruộng như trước, nhịn ăn nhịn mặc dành tiền gửi đi.
Hai năm đầu, nghỉ hè và nghỉ Tết anh đều về quê giúp chị làm việc. Nhưng năm thứ ba đại học, anh viết thư về nói: Chị đừng gửi tiền nữa. Và kỳ nghỉ tôi cũng không về nữa đâu. Tôi muốn ra ngoài kiếm việc làm thêm, đỡ gánh nặng cho chị. Lúc đó chị đã 29 tuổi.
Ở quê, người như chị đã là mẹ của mấy đứa con. Người trong làng đều bảo, chị nuôi anh lớn khôn, lại còn cho anh thoát li đi học, thế coi như là đã quá tốt với anh rồi, chị già hơn anh mười một tuổi, thôi đừng chờ chồng nữa. Bây giờ anh đã đi xa, ở ngoài thế giới bao nhiêu xanh đỏ tím vàng, biết chồng mình có về nữa hay là không về nữa!
Chị cũng không biết trong lòng mình là đang thủ tiết, giữ đạo phu thê: Dù sao thì mười mấy năm trước chị cũng là một cô dâu gả cưới đàng hoàng về nhà anh; hay là mình đang vì câu nói trước ngày anh lên đường đi xa: "Chị, chờ tôi quay về nhé!"; hay là chị đang lo âu như người mẹ không yên tâm về đứa con nhỏ của mình đang ở xa; chị cứ chờ.
Chị cứ giữ sự yên tĩnh và ít lời như mấy chục năm nay đã từng.
Cuối cùng cũng đã đến lúc anh tốt nghiệp. Anh quay về. Anh đã là một người đàn ông trưởng thành có phong cách và khí chất, dáng dấp một người đàn ông nho nhã hiểu biết. Còn chị, dãi nắng dầm sương, gương mặt nhọc nhằn lao khổ đã sớm bay hết những nét đẹp thời trẻ, là một người đàn bà nhà quê đích thực.
Trong lòng chị chỉ còn coi anh là một đứa em trai thân yêu. Chị không dám ngờ anh đã nói với chị: "Chị, tôi đã trưởng thành, giờ chúng ta có thể thành thân!"
Chị nhìn anh, như đang nằm mơ, chị sợ mình đang nghe nhầm. Anh cũng là một người đàn ông trọng tình trọng nghĩa như chị?
Chị cười, tự đáy lòng dâng lên miệng cười rạng rỡ, cũng để rơi xuống những giọt nước mắt đẹp đẽ nhất đời người.
5. Xin lỗi.
Anh ở lại thị trấn dạy học, chị ở nhà làm ruộng. Họ có với nhau một con trai một con gái. Sau này, anh đến khu mỏ dầu dạy học, lên chức hiệu trưởng một trường Trung học nhờ vào bằng cấp và kinh nghiệm dạy học của mình. Vì hộ khẩu, con cái vẫn để ở nhà cho chị nuôi nấng. Sau khi nhập được hộ khẩu, anh về quê đưa vợ con lên trường.
Các giáo viên trong trường đến giúp hiệu trưởng dọn nhà. Có một giáo viên bộc tuệch chạy ra nói:
"Hiệu trưởng, sao anh đón mẹ và em trai lên ở mà không đón cả chị nhà và các cháu luôn?"
Một sự im lặng bao trùm, mọi người đều ngoái đầu nhìn chị. Lúc ấy, mặt chị sượng trân trân, không biết nên nói gì, chị cười méo mó, nhìn anh biết lỗi. Anh ngoái đầu nhìn chị, nói với tất cả mọi người với giọng chắc nịch:
"Chị các chú đây. Có cô ấy mới có tôi ngày hôm nay, thậm chí cả tính mạng tôi."
Chị nghe anh nói, mắt chị dâng lên toàn là nước mắt.
6. Năm tháng như bài ca, tình yêu như ngọn lửa
Bây giờ chị đã bảy mươi hai, vì làm việc nặng nhọc quá nhiều, sức khoẻ kém, bệnh phong thấp làm chị đi tập tễnh. Anh sáu mươi mốt, đã về hưu từ lâu.
Hai năm nay họ dọn về khu nhà này ở, nếu hôm nào trời không mưa gió, hoặc ngày quá lạnh, đều có thể gặp bóng dáng họ ở khu sân chơi, bồn hoa; chị nắm gậy chống, anh đỡ một bên, đi chậm chạp từng bước một về phía trước, như đang dìu một đứa trẻ tập đi, chăm sóc như thế, ân cần như thế.
Những người biết chuyện của họ đều nhìn theo, cảm động bởi mối tình sâu nặng và bền chặt của anh và chị, mang nghĩa đủ tình đầy đi dọc một kiếp người. Anh nói:
"Cô ấy mang cho tôi sinh mệnh, cho mẹ tôi sự ấm áp, cho tôi một mái nhà, bây giờ, tôi dành nửa cuối đời tôi chăm sóc cô ấy."
Anh dắt tay chị, như ngày đó chị dắt tay đứa bé năm tuổi, họ cùng mỉm cười, đẹp như nét mây chiều êm ái nơi chân trời mùa hạ.
(Trang Hạ dịch)
xem blog Trang Ha
http://blog.360.yahoo.com/blog-Vu7viS0laaeZd4RQ7woX3YU-?cq=1
Trên đoàn tàu, cô soát vé hết sức xinh đẹp cứ nhìn chằm chằm vào người đàn ông lớn tuổi áng chừng đi làm thuê, hạch sách:
- Vé tàu!
- Đây là vé trẻ em.
- Vé trẻ em chẳng phải ngang giá vé người tàn tật hay sao ? Giá vé trẻ em và người tàn tật đều bằng một nửa vé, đương nhiên cô soát vé biết.
- Anh là người tàn tật ?
- Vậy anh cho tôi xem giấy chứng nhận tàn tật.
- Tôi... không có giấy tờ. Khi mua vé cô bán vé bảo tôi đưa giấy chứng nhận tàn tật, không biết làm thế nào, tôi đã mua vé trẻ em.
- Không có giấy chứng nhận tàn tật, làm sao chứng minh được anh là người tàn tật ?
- Tôi cần xem chừng từ, tức là quyển sổ có in mấy chữ "Giấy chứng nhận tàn tật", có đóng con dấu bằng thép của Hội người tàn tật !
- Tôi không có hộ khẩu của địa phương, người ta không cấp sổ tàn tật cho tôi. Hơn nữa, tôi làm việc trên công trường của tư nhân. Sau khi xảy ra sự cố ông chủ bỏ chạy, tôi cũng không có tiền đến bệnh viện giám định...
- Giấy chứng nhận tàn tật của anh đâu ? Người đàn ông đứng tuổi trả lời anh không có giấy chứng nhận tàn tật, sau đó anh cho trưởng tàu xem nửa bàn chân của mình . Trưởng tàu ngay đến nhìn cũng không thèm nhìn, cứ nhất quyết nói :
Người đứng tuổi bỗng thẫn thờ. Anh lục khắp lượt các túi trên người và hành lý, chỉ có hơn 50 ngàn đồng, hoàn toàn không đủ mua vé bổ sung. Anh nhăn nhó và nói với trưởng tàu như khóc : - Sau khi bàn chân tôi bị máy cán đứt một nửa, không bao giờ còn đi làm được nữa. Không có tiền, ngay đến về quê cũng không về nổi. Nửa vé này cũng do bà con đồng hương góp mỗi người một ít để mua giùm, xin ông mở lượng hải hà, giơ cao đánh khẽ, nương bàn tay cao quý, tha cho tôi. Trưởng tàu nói kiên quyết :
- Bắt anh ta lên đầu tàu xúc than, coi như làm lao động nghĩa vụ. Nghĩ một lát, trưởng tàu đồng ý :
Một đồng chí lão thành ngồi đối diện với người đàn ông đứng tuổi tỏ ra chướng tai gai mắt, đứng phắt lên nhìn chằm chằm vào mắt vị trưởng tàu, hỏi :
- Chuyện này có liên quan gì đến tôi có là đàn ông hay không ?
- Anh dùng cái gì để chứng minh anh là đàn ông ? Anh đưa giấy chứng nhận đàn ông của mình cho mọi người xem xem ? Mọi người chung quanh cười rộ lên. Thừ người ra một lát, vị truởng tàu nói :
Đồng chí lão thành lắc lắc đầu, nói :
- Tôi không phải đàn ông, có chuyện gì ông cứ nói với tôi. Đồng chí lão thành chỉ vào mặt chị ta, nói thẳng thừng :
- Ông ăn nói sạch sẽ một chút. Tôi không là người thì là gì ? Đồng chí lão thành vẫn bình tĩnh, cười ranh mãnh, ông nói:
Mọi hành khách chung quanh lại cười ầm lên một lần nữa. Chỉ có một người không cười. Đó là người đàn ông trung niên bị cụt chân. Anh cứ nhìn trân trân vào mọi thứ trước mặt. Không biết tự bao giờ, mắt anh đẫm lệ, không rõ anh tủi thân, xúc động, hay thù hận.
Truyện ngắn
Rượu có nói gì đâu!
Bệnh viện huyện nằm bên bờ ruộng lúa. Bao quanh bệnh viện là lúa. Bước chân ra cổng gặp lúa. Hình như ở đây cái gì cũng nằm bên bờ ruộng.
Hàng bánh xèo, quán bún cá, quán nem nướng, cà phê... đều nhìn ra ruộng lúa. Hầu hết những con đường lớn nhỏ đều chạy xuyên giữa cánh đồng.
Tôi đến đây để thăm một người quen bị tai nạn, cũng chỉ ở lại từ chiều hôm trước đến sáng hôm sau. Cái tôi nhìn thấy đầu tiên là khu bệnh viện mới đang được xây dựng ngay bên cạnh bệnh viện cũ xập xệ. Bệnh viện mới đã lên được ba tầng cao sừng sững đổ bóng xuống cánh đồng. Nghe nói ngoài các phòng bệnh bình thường sẽ có thêm nhiều loại phòng mới cho người bệnh tự chọn, gọi là “phòng theo yêu cầu”. Đó là các loại phòng sáu giường, bốn giường, hai giường kèm các tiện nghi và chế độ chăm sóc khác nhau tùy giá tiền. Có cả loại phòng đặc biệt một giường được thiết kế theo kiểu phòng khách sạn... Nhưng đó là trong tương lai, còn hiện tại khu bệnh viện cũ vẫn đang được sử dụng. Trước cửa phòng khám có rất nhiều người cầm thẻ bảo hiểm đứng ngồi chờ gọi tên. Lại có nhiều người nữa đi đi lại lại tìm các phòng siêu âm hoặc xét nghiệm. Họ gọi nhau, chào nhau, hỏi chuyện người quen rôm rả như trong hội chợ.
Phòng hậu phẫu nằm sâu phía trong lại vui nhộn một cách khác. Phòng có bốn giường thì hai giường đã có người. Mỗi người bệnh phải có ít nhất một người nhà đi theo phục vụ chưa kể người quen đến thăm và những người ở các phòng bên cạnh sang chơi, nên trong phòng luôn có ít nhất bốn người trở lên. Ngoài hai người bệnh phải nằm im còn mọi người đều chuyện trò rôm rả thoải mái. Xin bắt đầu từ giường số 1. Người nằm giường số 1 là một ông già ngoài bảy mươi mổ dạ dày. Người chăm nuôi ông là bà vợ cũng ngoài bảy mươi. Bà được những người có mặt trong phòng lúc đó phong cho danh hiệu “người đẹp”, bắt đầu từ lúc bà ra ngoài cổng bệnh viện mua về một hộp cơm. Bà xẻ nửa phần cơm ra nắp hộp cho mình, phần còn lại và toàn bộ thức ăn bà để lại cho ông chồng. Vừa đỡ ông ngồi dậy bà vừa nói: “Ở đây cho ăn cơm, về nhà cho ăn cỏ non”. Câu nói của bà làm những người có mặt trong phòng thích thú. Ai đó nói:
- Bà già vui ghê. Hồi trẻ chắc phải cỡ hoa hậu chứ không đùa.
Nghe khen, bà già liền giơ cao bàn tay phải có một ngón bị tật cứng đơ ra cho mọi người nhìn, kể:
- Bởi vậy mới nói Trăng rằm rời rợi sáng soi, anh mải coi nhan sắc không coi cái chui cày này.
- Lại còn hay thơ nữa.
- Không phải của tui - bà già cải chính ngay - Đó là tui ăn cắp của bà chị ổng. Lúc cưới tôi về rồi bà chị ổng mới nhìn thấy thằng này (tức ngón tay bị tật). Bả hòi thằng Ba nó có biết không, tui nói không. Nhưng tui không có giấu. Tại ổng làm biếng nắm tay tui nên không biết chứ tui đâu có giấu...
- Ổng làm biếng nắm tay nhưng làm siêng cái khác phải không?
- Phải, cái khác thì ổng làm siêng lắm. Nghe vậy bà chị mới nói: “Thôi rồi, vậy là trăng rằm rời rợi sáng soi, anh mải coi nhan sắc không coi cái chui cày (là cái tay cùi) rồi”. Nhưng thằng này nó không phải cùi. Nó bị lên mụt càng cua, nhưng hồi đó không ai bày, không biết chữa nên mới thành ra vầy. Có chín ngón tay vậy chứ tui giỏi lắm á. Ổng đi năm bệnh viện, hết gan, thận rồi bao tử, tui đi nuôi cả chứ ai.
- Con cái đâu, sao không thấy đứa nào?
- Nó còn phải đi làm. Có con mà nhờ cũng đỡ lắm. May có tiền tụi nó đưa về cho mới đi hết viện này tới viện kia chứ không thôi... Còn bên đó? Bị sao vậy?
Bây giờ mối quan tâm được chuyển sang giường thứ 2. Nằm giường thứ 2 là một người đàn ông mổ chấn thương sọ não. Người đi theo phục vụ là bà vợ khoảng 50 tuổi. Khi được hỏi về nguyên nhân khiến ông phải vào viện, bà vợ kể, đại khái: Mấy ông trong xóm rủ nhau gầy độ nhậu ở nhà ông A. Sắp hết một can rồi mà vẫn chưa đã, ông B. mới đứng dậy nói: “Thôi đi qua bên tao uống tiếp, đi”. Cả đám đứng lên kéo nhau qua nhà ông B. tiếp tục nhậu. Đang nhậu dở chừng thì ông B. chủ nhà tự nhiên đứng dậy xua tay đuổi: “Về, về. Đi về!”. Cả đám ngơ ngác chưa hiểu ra sao thì chủ nhà đã chạy ra sau nhà vác một cây củi ra, sừng sộ: “Tao nói về không về hả?”, rồi vung cây củi quật thí xác vào đám bạn nhậu. Khi đó mấy cha mới tá hỏa bỏ chạy. Ông này (tức nạn nhân đang nằm đây, tức ông chồng bà) tiếc đôi dép còn ráng đứng lại xỏ nên mới bị một gậy trúng đầu té lăn xuống trúng hòn đá...
- Có vụ gì mà nhậu dữ vậy?
- Có gì - bà vợ nạn nhân đáp - Mấy cha đó mà cần gì phải có gì. Ở nhà bên kia thì có chén mắm ruốc với mấy que tăm. Mỗi ông cầm một que tăm quẹt vô chén mắm một cái tợp một hụm. Sang bên này thì ớt chỉ thiên. Dĩa ớt để giữa, mỗi ông lãnh một trái, cắn một miếng ngửa cổ uống một hớp. Vậy mà cũng hết mấy can nữa là...
- Cũng vui. Kể ra nhậu vậy cũng còn hơn mấy bà đánh bài - một người nói - Lúc uống vô rồi là rượu nó quậy nó nói chứ đâu phải tụi tôi.
- Mấy ông cứ đổ tại rượu. Tôi chưa nghe thấy rượu nói bao giờ, chỉ nghe mấy ông nói không à.
Mọi người chợt im bặt vì nghe bên ngoài có tiếng ồn ào, rồi ngay lúc đó một người mới được đưa vào giường số 3. Người này là một thanh niên bị băng nẹp ở cánh tay. Người nhà đi theo là mẹ anh ta. Nhiều người ở các phòng bên cạnh cũng ùa sang. Họ xúm lại hỏi: “Sao vậy? Sao vậy?”. Người nhà quê sốt sắng quan tâm và cũng dễ bộc bạch. Bà mẹ nhìn anh con trai đang thiêm thiếp trên giường, kể đầu đuôi ngọn ngành:
- Nó mới hai mốt tuổi. Vợ nó đẻ con được bảy ngày thì bỏ đi...
- Sao lại bỏ đi? Có kình cãi gì không?
- Không kình cãi, không có chuyện gì hết. Tự nhiên nó bỏ đi không nói tiếng nào. Như là nó đã định đi từ trước hay sao nên nó không chịu cho con bú. Con nó nhỏ quá thành ra tôi phải nuôi. Tôi nói thằng này con coi liệu kiếm ai về ở cùng còn cơm nước con cái, chứ má già rồi chân tay đâu có mạnh được bao nhiêu nữa. Nhưng nó không chịu là không chịu. Nó nói con sợ đàn bà quá rồi. Tháng trước mưa nhiều nó không kiếm được việc làm...
- Nó làm gì?
- Làm mướn. Ai mướn gì làm nấy. Tháng trước mưa nhiều, có tới cả tuần liền nó không kiếm được việc làm. Nó sang hỏi mượn thằng anh nó bốn chục ngàn đồng mua sữa cho con. Tới hồi nó mang sang trả, thằng anh nó hỏi: “Sao có bốn chục? Còn tiền lời tao đâu?”. Thằng này mới nói có mấy chục ngàn đó mà lời lãi gì. Thằng kia nói mày tính xù hả, mày xù tao xả một nhát cho mày chết mẹ mày luôn chứ nói. Thằng này mới nói má tôi cũng là má anh sao anh nói vậy. Nói qua nói lại sao đó rồi thằng kia xách dao ra chém một nhát gần lìa cánh tay thằng này. Vô viện từ hồi hôm, bác sĩ nối gân bó xương lại tới giờ mới xong.
Câu chuyện làm không khí lắng xuống buồn bã. Người ta chia sẻ bằng cách đưa nước uống, đưa bánh mì cho bà, rồi mọi người tản dần.
Khuya. Hai bà vợ của hai bệnh nhân ở giường số 1 và số 2 lôi ghế xếp dưới gầm giường ra ngả lưng. Bà mẹ của bệnh nhân giường số 3 vẫn mở mắt ngồi như tượng bên chân giường cậu con trai. Đến gần sáng người ta thấy nước uống, bánh mì vẫn còn nguyên như bà chưa hề động tới.
Trời sáng từ lúc nào. Tiếng rao của những người bán đồ ăn sáng bắt đầu vọng đến các phòng bệnh.
Bỗng nghe trong phòng tiếng vị bác sĩ kêu to: “Bệnh nhân giường số 3 đâu rồi?”. Lúc này mọi người mới ngơ ngác: giường số 3 trống trơn. Anh chàng bị chém đứt cánh tay và cả bà mẹ anh ta nữa đã biến mất từ lúc nào. “Trốn rồi, trốn rồi!”. Vị bác sĩ như đã quen với cảnh này, lắc đầu: “Cái tay đó phải điều trị ít nhất một tuần đến mười ngày mới xuất viện được. Bỏ đi như vậy rồi sao?”. Cô y tá chia buồn: “Vậy là bác sĩ phải đền tiền thuốc?”.
Đến đây thì tôi rời bệnh viện. Khí trời buổi sáng và màu xanh lúa non trải rộng trước mắt làm tôi thấy dễ chịu hẳn. Ở một quán hàng ngoài cổng đã có một người đàn ông đang đứng mua rượu. Những hàng quán dạng này như mới dựng lên chủ yếu để bán cho cánh thợ đông đúc đang làm việc bên khu bệnh viện mới. Chủ quán là một người đàn bà đang vừa đậy nắp can vừa nói: “Ai nói sao chứ tôi thích đàn ông phải biết uống à. Đàn ông mà không biết uống nhìn tướng nó hãm tài bần tiện sao sao, không có phóng khoáng, phải vậy không?”.
Tôi lại nhớ đến câu nói đã nghe trong phòng hậu phẫu hồi đêm: “Mấy ông cứ đổ tại rượu. Tôi chưa nghe thấy rượu nói bao giờ...”. Đúng vậy. Tôi cũng chưa nghe rượu nói bao giờ, chỉ mới nghe người bán rượu nói. Những người bán rượu ở vùng này nghe đâu toàn là đàn bà con gái cả.
CƠN MƠ
Truyện ngắn của Trần Thị Thanh Thảo
Hôm qua bác sĩ trả kết quả xét nghiệm. Tôi bị ung thư máu, và chỉ còn sống tối đa sáu tháng nữa. Có trời mới biết tại sao.
Đã có một trường hợp tương tự trong sách vở, sau khi nghe thông báo, bệnh nhân thứ nhất bèn nêu nguyện vọng cuối đời đi du lịch vòng quanh thế giới, người thứ hai nói để lại toàn bộ gia tài cho một quĩ từ thiện, người cuối cùng thì... muốn một bác sĩ khác. Tôi thích nhân vật cuối cùng.
33 tuổi, đứa con hiếu thảo, người chồng mẫu mực, người cha tốt, mọi người xem tôi là tấm gương hiếm có. Tiếc rằng sự hiếm có này không được đưa vào Sách đỏ để bảo
tồn và phát triển, thần chết thích ghi nó vào Sổ đen của ông ta hơn.
Đến ba bệnh viện có uy tín khác, số phận tôi vẫn bị đóng dấu sắp khai tử.
Tôi ở hiền nhưng chẳng gặp lành. Trí nhớ tôi làm sao đủ kiên nhẫn kéo dài sang kiếp sau để tin vào luật nhân quả. Tự mình phải tạo cái “nhân” công bằng cho cái “quả” đắng chát hiện tại.
Tôi đi gặp Kim, nữ đồng nghiệp xinh xắn. Trong quá khứ, tôi đã từ chối tình yêu của em vì trót mang hình tượng người chồng mẫu mực. Tiếc thay, sự từ chối đó vẫn không thể ngăn cản số phận tôi khỏi bị bôi đen như mực.
Tôi tin Kim sẽ dang tay cứu vớt trái tim đau đớn của tôi, chúng tôi sẽ được tự do sống theo cảm tính, bỏ mặc lý trí. Vài tháng ngắn ngủi vẫn còn hơn không bao giờ.
Nhưng Kim hôm nay không còn là Kim của hôm trước, dù rằng tôi vẫn chưa tìm đủ lời thông báo cho em biết số phận đen đủi của tôi. Em đón tôi bằng nụ cười của người vừa tìm ra chân lý: em và tôi không thể có hạnh phúc được đánh đổi bằng bất hạnh của vợ con tôi. Bên cạnh em, chân lý thật sự bằng xương bằng thịt của em, cậu nhân viên vừa qua thời gian thử việc ở công ty, cũng chào tôi bằng nụ cười vừa chinh phục đỉnh Olympia tình yêu. Trước hạnh phúc của họ, tôi cúi đầu, vì ganh tị, vì thất vọng, vì xấu hổ.
Cánh cửa nhà Kim khép lại, cơ hội để tôi trở nên xấu xa cũng khép lại.
Tôi lang thang trên phố, tiếp tục nghĩ cách “sự trả đũa số phận”. Tôi cóc cần Kim cùng cái chân lý quái quỉ của em nữa. Tôi có đủ tiền để tìm một người đàn bà thứ hai trong đời cho cuộc mua vui một đêm. Hoặc là đốt hết thời gian tối nay cho những thú vui trước đây tôi phải nén lòng chối bỏ. Có thể là uống rượu để quên, có thể là tự do nhảy nhót, gào rú và nguyền rủa nỗi bất hạnh, đến chết cũng được.
Tôi mở một phần sự thật lòng mình, trừ căn bệnh quái ác, để rủ rê thằng bạn thân bước vào cuộc ăn chơi dự tính ấy. Sao lại có chuyện tự nhiên thế, nó nghi ngờ. Sự nghi ngờ làm người ta ngần ngại, nhất là đối với một tấm gương không tì vết như tôi.
Ngôi sao thánh thiện không buông tha tôi.
Thì thôi tôi đi một mình. Chẳng có quán nào lại từ chối phục vụ thượng đế đến một mình.
Chỉ có sự xấu xa từ chối quyết tâm gia nhập của tôi, nó xuất hiện trong bộ dạng kiểm tra đột xuất của cơ quan chức năng đột kích vào nơi tôi chuẩn bị sa ngã. Tôi được vực lên, trong khi phong cách còn may mắn chưa kịp đánh mất. Tôi được cảnh cáo như một người mới vi phạm, mà sự thật tôi cũng chưa kịp vi phạm điều gì.
Vì tôi phải là người tốt, số tôi thế rồi.
Vợ tôi ngạc nhiên: anh lau nhà làm gì, để đấy cho em. Con tôi tròn xoe mắt: hôm nay con lại được ba chở đi chơi nữa ạ. Ba mẹ tôi cảm động: mua nhân sâm về làm gì, ba mẹ còn khỏe chán, hay là để cho con vậy, dạo này con xanh quá. Tôi nhệch mồm, suýt khóc. Cả tấn nhân sâm cũng chẳng chữa nổi bệnh cho tôi.
Vợ tôi không chịu được sự úp mở nên hỏi thẳng: Có phải anh đã làm gì có lỗi với gia đình này không? Giá mà có thể nói ra sự thật, nhưng tôi không đủ can đảm, tôi sợ mọi người không chịu nổi cú sốc này.
Vợ quyết không nhượng bộ sự im lặng của tôi. Không khí trong nhà suốt ngày chì chiết, lu loa. Vợ tôi không muốn có người chồng quá mức hoàn hảo.
Làm người xấu không được. Làm người tốt cũng không xong. Thì làm người vừa xấu vừa tốt vậy.
Bằng cách đánh số đề. Mặt xấu là vi phạm pháp luật, mặt tốt là giúp huyện đề có công ăn việc làm.
Bằng cách làm tốt việc công ty và bỏ phế việc nhà cho vợ.
Bằng cách học tập việc lập quĩ đen cho riêng mình để rộng tay ăn chơi đàn đúm.
Gia đình tôi được vui vẻ vì phần tốt giả tạo của tôi. Tôi được vui vẻ vì phần xấu rất thực và bản năng của tôi. Rốt cuộc, hạnh phúc cuối đời của tôi chỉ đơn giản là thế.
Nhưng một ngày, vợ tôi đón tôi ở cửa bằng những giọt nước mắt: Sao anh lại giấu em?
Tôi bừng tỉnh. Vợ tôi đang ngồi bên giường, gục mặt vào một tay, tay kia thì đang giữ chặt bàn tay tôi. Ý nghĩ hiện tại trong tôi chưa kịp nối nhịp với quá khứ, nên tôi phải kiên nhẫn nghe những dòng giải thích của vợ:
Được thăng chức thì uống vài ly bia với đồng nghiệp và về nhà trễ là chuyện thường thôi mà, sao anh lại giấu em. Nhưng lần sau anh đừng uống đến say không biết gì như tối qua nữa là được. Anh xem, anh bị cảm rồi đấy. Trán vẫn còn nóng bừng đây...
Tôi thở phào nhẹ nhõm. Hóa ra thần chết chỉ dọa người tốt như tôi trong mơ.
Vợ tôi lại nói: Em đã xin cho anh nghỉ làm ngày hôm nay rồi. Chút nữa em cũng sẽ ghé vào bệnh viện lấy kết quả xét nghiệm máu cho anh luôn. Anh nhớ ăn rồi uống thuốc, đừng chờ cơm em.
Tôi suýt đứng tim. Hóa ra ngày mới chỉ bắt đầu, và giấc mơ vẫn còn quanh quẩn...
TRUYỆN NGẮN
NẮNG VẪN CHIẾU VÀO Ô CỬA SỚM
-Truyện ngắn của TRANG HẠ
Ông Lượng lê ghế gỗ ra cửa. Lưới côn trùng áp lên ngón vết mảnh như vân tay, hờ hững. Phưỡn quạt, rốn béo hở rung rinh. Chiều Cao Hùng đặc quánh mùi bột hồi từ những cửa hàng tạp hóa gần đường nhựa. Những đám mây vắt qua ngọn cây im.
Vạn là khách quen cửa hàng tôi. Vạn lệt xệt qua đường, dép da lê xuống đường nhựa bỏng. Một đám mây nhẹ bỗng tỏa lên trong nắng ba giờ.
- Vợ có nhà không?
Ông Lượng nghi ngờ:
- Mày hỏi vợ tao?
- Vợ mày đi làm chứ gì?
- Đi làm ở công xưởng. Đứng băng chuyền xếp trứng gà vào hộp. Mới xin tuần trước.
- Cuối tuần bảo nó đi đến nhà tao, dạy con dâu tao tiếng Đài.
Vạn quay nhìn tôi qua những chiếc xe băng ngang đường. Sau lớp cửa kính đọng hơi nước của Seven-Eleven, cái nhìn méo xệch nghi ngờ.
Cửa mở, người khách vào, mang tiếng chuông điện kính coong nhàm nhạt.
Tôi hình dung Vạn đè lên bụng béo đấm vỡ mũi ông già Lượng bên kia đường.
Lượng xếp quạt lên cái bụng trắng phều, ừ à.
- Vợ tao đi cả tuần. Nó làm ở Tân Trúc, cuối tuần có khi không về đây.
- Thế thì mày biết ít tiếng Việt, mày đến nhà tao.
- Không tiện lắm. Cô ta là con dâu nhà người khác.
Lượng chần chừ, định nói, con dâu mày.
Họ quen nhau hai mươi năm rồi!
Vạn nhìn lên cái mũi vẹo vọ trước mặt, nằm kẹp giữa cặp má và cái cằm phì nộn sần sùi, thuyết phục.
Hai mươi năm trước đấm vỡ mũi nhau trên quảng trường Đài Bắc, hai mươi năm sau thành bạn vì cùng rước cô dâu Việt vào nhà.
Lượng lắc đầu.
- Tại sao mày không cho nó ra ngoài đi học?
Im lặng. Vạn lủi thủi quay đi. Gió thốc lên giữa lòng phố, một chiếc xe tải lao ầm ầm qua, đám mây trên đỉnh rặng Dương Đề rung rinh.
Con trai Vạn lúc ba tuổi sốt nặng quá, đầu ngoẹo qua một bên.
Làm chú rể đầu vẫn ngoẹo qua một bên. Làm sao một người tàn phế thần kinh có thể sang Việt Nam cưới được vợ mang về, không ai hiểu nổi.
Nhưng không ai thắc mắc. Đám cưới ở Đầm Sen, cô dâu mặc áo đầm đỏ xù to như một đám mây, chú rể gầy đét như con thằn lằn.
Tân hôn, mưa dai dẳng cả đêm, như đám mây kết ở áo cưới rã tan ra dọc đường về nhà chồng.
Quận 5 có những cậu bé mì gõ rảo cẳng chịu khó luồn vào quanh hẻm Triệu Quang Phục. Cô dâu nhìn xuống cửa tiệm bánh Đức Phát, khi má nuôi tháo lại vòng vàng. Cho dì xin con nhé!
Tiếng gõ lọt thỏm, rời rạc như tiếng giọt nước, chỉ làm đêm thêm tịch mịch.
Bao nhiêu ngày dồn lại một cuộc đời?
Đám mây đỏ tuột hết áo xống. Tóc cứng đơ. Ngồi nhìn người chồng xa lạ chảy nước dãi trong giấc ngủ tối.
Suốt những đêm ở Đại Liêu, người dâu vẫn ngồi cứng đơ nhìn chồng nằm xệch xạc. Ngồi cứng đơ nhìn chồng đập những đồ vật gần tay vào đầu mình.
Bác sĩ Bệnh viện Quân đội Cao Hùng nói bệnh thần kinh không dễ lây như bệnh trầm cảm. Nhưng nên thay những đồ vật quanh cậu Vạn bằng những thứ mềm hơn. Đừng để cậu ấy giết người.
Dù sao cũng ba mươi vạn Đài tệ.
Tôi không biết tình yêu là gì.
Tôi chỉ biết khi tôi gọi điện hỏi, em có quay về với anh không, tôi rất muốn nói rằng, anh đã sẵn sàng.
Cô ấy nói, tôi đã 39 tuổi, tôi sắp lấy chồng rồi. Tháng sáu cưới.
Tôi treo thõng máy lên, tì vào thùng điện thoại, khóc nức nở góc sân bay Trung Chính.
Tôi về nhà, ngôi nhà mới mua, cửa sổ rộng.
Cô ấy nói cô ấy thích ngôi nhà có cửa sổ rộng.
Cô ấy nói từ sáu năm trước. Khi đó, tôi mới ra trường. Tôi mới hai hai tuổi. Tôi thất nghiệp, và tôi mới yêu.
Và cô ấy mơ ước ngôi nhà có cửa sổ rộng, sau ba năm sống chung không hôn thú, cô ấy bỏ tôi.
Lượng đặt máy xuống. Vợ nói không đưa hai nghìn tệ không về ngủ. Tuần trước ngủ hai đêm mới đưa ba nghìn tệ, chưa đủ.
Vợ thường lấy kim băng khâu chặt quần dài vào. Vạch lên tường phòng ngủ số lần ân ái.
Mỗi vạch trên tường một lần ân ái. Vạch nào đã trả tiền, vạch nào còn nợ? Lượng không dám đặt mắt nhìn vào đám vạch nguệch ngoạc.
Vợ còn trẻ quá, vợ tưởng Đài Loan là chuyến du lịch dài ngày, vợ không chịu hiểu rằng vợ đang là vợ.
Cũng may, khi cưới, vợ còn trinh. Ông già Lượng ngồi xuống ghế bành, buồn thiu, nghĩ, rồi cô ấy sẽ hiểu, cô ấy quí giá hơn hai nghìn tệ rất nhiều lần.
Cô dâu Việt về nhà chồng không biết tiếng nói của cả nhà chồng, sống làm sao? Nhưng nhà Vạn sợ mời người lạ dạy tiếng thì bị lừa mất con dâu. Mời cô dâu Việt nhà khác dạy thì sợ bị rủ rê đánh bạc, làm liều. Mời giáo viên đến nhà dạy thì tốn kém quá.
Người dâu ở trong nhà từng đêm vẫn im lìm như khúc gỗ. Không kêu cả khi hứng chịu những trận đòn thần kinh của ông chồng ngoẹo cổ vẫn gầy teo như con thằn lằn.
Một hôm nhà Vạn sơ sểnh để hở cửa, người con dâu lẻn ra ngoài được, biến mất.
Tôi tìm những quảng cáo môi giới cô dâu Việt.
Tôi không biết người con gái Việt Nam có thích một ngôi nhà có cửa sổ rộng hay không.
Tôi không còn là đồng nam, nên tôi không cần trinh nữ. Tôi nghĩ tôi sẽ đi Việt Nam.
Tôi chỉ cần tìm một cô gái giản đơn đến tham dự vào đời mình.
Tôi thấy cô ấy đứng khóc ở góc phố Đại Thuận.
Hỏi gì cũng không nói. Nhớn nhác và thống khổ như đứa trẻ lạc. Nước mắt nước mũi ròng ròng.
Một người phụ nữ đứng khóc thảm thiết giữa ngã tư đường, xe cộ nhộn nhịp qua lại. Không ai dừng lại hỏi xem cô ta có vấn đề gì. Xã hội Đài Loan ngày càng lạnh lùng. Ngay cả hiếu kỳ cũng không, họ sợ bị lừa dối.
Người Đài Loan sợ bị lừa dối đến mức ngay cả những tiếng kêu cứu cũng không bận lòng.
Chả phải ngày nào bọn lừa đảo cũng gọi điện, giả mạo là con cái đang bị bắt cóc, kêu cứu cha mẹ đó sao. Bao nhiêu người bị lừa hàng bao nhiêu triệu tệ rồi.
Tôi cũng không muốn là người bị lừa tiếp theo. Tôi gọi 119.
Người dâu bị bắt về rồi, càng nghiêm cấm chặt hơn, cửa đóng im suốt ngày.
Hai người ngồi nhìn nhau trong phòng bé con. Một người tàn phế, ngoẹo đầu hằn học. Một người tâm hồn tan nát, cúi đầu rũ rượi. Cả hai đang tàn tật như nhau.
Máy lạnh chạy ro ro. Giờ là tháng sáu. Đường phố nôn nao, cách biệt một trời với căn phòng chung cư tầng một đầy bóng tối.
Tân Trúc có nhiều nhà máy, nhiều công nhân Việt Nam sang lao động, cao lớn, trẻ khỏe, đẹp trai, nói giọng Bắc xôn xao.
Vợ giọng Cần Thơ dễ thương, đi làm hai tháng, bén mùi, không về Cao Hùng nữa.
Không dám nhìn kỹ, không dám đếm, ông già Lượng đi xóa đám vạch trên tường phòng ngủ.
Những chiều Cao Hùng nồng nàn, gió hiu hiu thổi bâng khuâng, ông già Lượng kê ghế ra cửa phơi gió, bụng dồi lên, rốn hở mênh mang như tượng Phật Di Lặc.
Tôi hỏi Vạn, con dâu ông sao rồi?
Hỏi xong cảm thấy thất thố, vội xin lỗi rối rít. Dù sao cũng là dâu nhà người ta.
- Cho về Việt Nam rồi.
- Sao?
- Nó đi lạc về nhà cả tháng nay không ăn, không uống, không khóc, không nói. Chỉ nằm nhìn trân trối, như một xác chết trôi trên giường.
Như thể linh hồn đã rời bỏ nó rồi, bay về Việt Nam của nó rồi. Giờ chỉ là cái xác nằm ở nhà tôi.
Cứ thế nó gầy đi. Như một người đã chết. Bất quá, đành gọi môi giới chở nó trả về Việt Nam.
Cầm bằng mất toi ba mươi vạn Đài tệ.
Tôi bỏ tiệm tạp hóa. Seven-Eleven là một chuỗi cửa tiệm nhàm tẻ bởi quá nhiều màu sắc.
Quá nhiều qui ước, quá nhiều khách hàng, quá nhiều ngày nối ngày.
Cao Hùng quá nhiều ngày nối ngày. Như người nối người qua đường.
Ngày mai, nắng vẫn chiếu vào bên cửa sớm.
25/7
Nửa đêm và một ngày
Truyện ngắn của HỒ THỊ NGỌC HOÀI
Ông Cam vừa chợp mắt thì giật mình vì tiếng còi xe xé rách toác không gian. Tim loạn nhịp, ông lọ mọ ngồi dậy, lẩm bẩm: “Khổ thật! Không tài nào mà ăn ngủ”.
Ông dò dẫm đến chỗ công tắc điện. Ngôi nhà mới, xây cất theo lối hiện đại sáng xanh. Kim giờ đồng hồ chỉ con số mười hai. Bà Lai nằm trong buồng cũng tỉnh, hỏi vọng ra: “Ông làm gì giờ này thế?”.
Ông Cam xách điếu đóm bước ra sân, không nói gì.
Sau tiếng còi xe chết tiệt vừa nãy, xung quanh yên ắng lại. Đêm mờ sao. Rít xong điếu thuốc, bóng ông Cam chìm vào lặng phắc.
Hai năm qua, máy xúc, máy ủi đào xới, mở đường. Không chỉ nhà ông Cam mà cả cái xóm núi này nhà nào nhà ấy bừng bừng, hớn hở vì được lộc lớn. Gò đồi biến thành đồi vàng, đồi bạc. Những nhà tranh vách đất lụp xụp cũng chẳng ngờ được đổi phận.
Người ta tranh nhau mua bán đất đai, xây nhà đẹp. Cửa hàng, cửa hiệu đủ kiểu mọc lên. Con đường đã cho xứ núi một dọc phố hiện đại, và gọi là “phố núi” thì rất đúng kiểu. Còn khu trung tâm văn hóa, chính trị, buôn bán trước đây thì được người ta gọi cho oai hơn là “phố cổ”.
Ông Cam cũng bán đất, chia cho con cái mỗi đứa mỗi ít. Không lẽ ông cứ giữ cả lại để nhìn con cháu khổ. Khi mấy đứa con tươm tất đàng hoàng thì gia tài của ông còn lại là ngôi nhà đẹp này và một ít tiền gửi tiết kiệm
Con đường làm thay đổi mọi thứ từ bé đến lớn. Xóm ông Cam không còn là cái xóm đồi mòn mỏi âm u nữa. Ông Cam không hình dung nổi lại được thế này. Chỗ nọ mọc cây xăng. Chỗ kia, chỗ kia nữa... thế rồi dày lên đủ các kiểu kinh doanh, làm ăn.
Và nhà ông, sát bên phải người ta xây nhà ba tầng sừng sững. Tầng một mở hàng ăn uống. Tầng hai, tầng ba thì cà phê, karaoke, bida... Càng ngày càng ồn ào. Cảnh nhậu nhẹt, cười nói, chúc tụng, hò hét, ném chai lọ, cốc chén... lẫn với mùi thức ăn bò, dê, chó... thơm đến phát hãi. Có lắm đêm lại hò hát như bò rống, mèo kêu, lợn chọc tiết... đến hơn mười một giờ đêm, chợp mắt ngủ thì tiếng xe máy rú ga, còi xe thẹt.
Rồi thì dạo này ai có quá lắm kẻ kêu ông hư người, hư tính. Họ nói ông thích tiền hơn, không để đất cho rộng mà ở, bán bình yên, tự do, còn suốt ngày đi kêu ca, cậy thương binh nặng cứ chọc quấy, đi hết ban này bệ nọ, đòi an ninh, văn hóa, văn minh. Lên cả công an huyện bảo bắt con trai ông đi cải tạo, đi tù.
Người đời lúc nào cũng tỏ ra thạo đời! Biết nhà người sáng tối ra sao! Họ biết ông thương con cháu mà bán đất như cắt từng khúc ruột ra? Ông muốn được sống cảnh phố xá sang trọng, nhưng bị rơi vào cảnh dở cười dở mếu này thì sao chịu nổi. Đôi lúc ông nói thèm có lại cảnh ao cá vườn cây trước đây, người ta bảo ông: Điên! Chập!
Người già, quá khứ đầy ăm ắp. Quá khứ gian nan, cực khổ, nhưng so với cảnh hiện giờ của ông thì thấm vào đâu. Có tiền, nhà cửa đề huề thì lại vấp phải chuyện như đá đè nặng, đau nát lòng, nó vắt kiệt quệ chút sức tàn của một lão già thương binh như ông. Chuyện thằng con út.
Học xong cấp ba nó đòi vào miền Nam tìm cách làm giàu, đổi đời. Ông vẫn hằng mong, gọi nó về từ lâu nếu như ở xứ người khó bươn chải, kiếm ăn. Nhưng chê cha mẹ nghèo nó chẳng chịu nghe, cứ biền biệt tăm hơi. Khi biết ông bà có lộc lớn nó mới về. Nhưng rồi khốn đốn lắm. Vừa đây tìm hiểu vì sao nó tìm cách này cách nọ xin tiền, tiêu tiền như nước chảy, thì ông mới biết nó bị nghiện.
Hai ông bà suy sụp tiêu điều từng ngày một. Dỗ nó đi cai, trở về lại tiếp tục. Nó trộm cái này, lừa cái kia. Cả hai ông bà chỉ muốn chết cho xong.
Nó biết đời nó bỏ đi rồi. Tháng ngày còn lại chỉ là lêu lổng, nằm trong ổ bài bạc, ổ gái, ổ ma túy. Khi nó xuất hiện, khi nghĩ về nó, là mặt ông Cam mất hết thần sắc, dại xọp đi thảm hại. Đôi mắt càng đục mờ, vô hồn, cứ khủng khiếp như mặt người chết. Có lần đang và miếng cơm, ông bần thần, rụng rời đánh rơi tung tóe, rồi nước mắt lăn dòng từ hốc mắt sâu hoắm.
***
Gần sáng dậy không thấy ông Cam đâu, không thấy xe đạp, bà Lai hốt hoảng, lo lắng. Bà không thể biết rằng lúc bốn giờ ông chồng dở tính gói bộ quần áo với mấy chục bạc, rồi dắt xe đạp đi ra khỏi nhà.
Ngày đánh giặc ông Cam đi nhiều lắm. Ký ức ông ngập những chuyến đi. Hết chiến tranh, ông phải đầu tắt mặt tối kiếm sống. Nghèo thiếu trói chặt chân lại. Đến giờ thì bao thứ dở khóc dở cười đẩy ông đi.
Ông đi đâu được nhỉ? Ông đã đi như một kẻ mộng du, cứ đi mà không biết sẽ đi đâu, chỉ biết thẳng theo con đường vừa mới làm xong mà đi.
Con đường thức dậy trong ông bao cảm giác. Ông đi đã được xa lắm rồi. Trên đầu ông giờ là nắng gắt, còn trước mắt ông là con dốc xuống lên hun hút, thăm thẳm. Ông dừng lại trên đỉnh dốc, nhận ra nó kiêu ngạo, thách thức.
Con đường mới toanh lẫn giữa cảnh vật núi non hùng vĩ khiến ông nguôi quên bớt phiền muộn, có được một trạng thái dễ chịu. Lâu lắm rồi, lùi trong khó khăn, mụ mị trong đau đớn, ông chẳng có được cảm giác này. Ông không thấy mệt, nhưng nhìn dốc, ông ngần ngại, phân vân. Nếu lên đến đỉnh bên kia thì chắc hết hơi, rồi liệu có sức đi tiếp không? Hay quay về?
Ông biết con đường này là con đường huyền thoại từ ngày ông đang ở chiến trường. Nó đẹp thật. Còn bao cái đẹp, cái hay... chỉ cần đơn giản thế này mà ông cũng không có lúc để mở lòng. Đáng thương cho ông sống mụ mị mà khắt khe quá với mình. Cung đường này, ông nghe nói cũng mới vừa hoàn chỉnh đây thôi. Nghe đâu nó hoàn chỉnh muộn nhất vì nhà thầu. Cũng vì thế mà hội cựu chiến binh chỗ ông có ý định nhưng vẫn chưa đi thăm thú được.
Bỗng ông lao xe cái vèo như gió cuốn. Bóng ông nhanh chóng mờ hút vào cái dải mịn xanh, thăm thẳm trước mặt. Con dốc xuống hun hút, tưởng sẽ nuốt chửng lấy cái vóc già khô trên chiếc xe đạp cũ của ông. Bóng ông lắc lư, chông chênh nhỏ dần. Có lẽ đó là một pha mạo hiểm đối với sức vóc của ông. Dáng ông liêu xiêu không biết có lên nổi không? Trời mỗi lúc một trưa nắng.
Dần dần, ông lê lết đôi chân, rời rã đôi tay. Mệt quá, ông Cam ngồi bệt xuống vệ đường. Dáng đồ tội nghiệp. Nắng. Ngồi ở lưng chừng dốc bên này, thấy trước mặt, núi rừng xanh tít tắp. Ông Cam ân hận đã quên mang theo chút nước, nhất là chiếc điếu cày. Ông tức mình lú lẫn.
Nhưng tự nhiên ông lại nghĩ rằng trên đỉnh dốc sẽ có quán nước chè, bánh chưng, thuốc lào, và người chủ quán đặc biệt. Hình ảnh về những chiếc quán tranh bên vệ đường của những năm xưa hiện về trong ông Cam.
Là vì ông đã có mối tình với cô hàng nước ngày mới nhập ngũ. Cô hàng nước có cái quán tranh nép bên vệ đường, dưới tán cây rừng. Đó là hai tháng luyện tập trước khi Nam tiến. Hai tháng, nhưng phải lòng nhau thì chỉ có mấy ngày. Mấy ngày đó đã theo ông đi khắp chiến trường, khiến trái tim ông luôn thổn thức dù ông chưa hề được cầm tay cô gái chứ nói gì đến một nụ hôn.
Cái cảm giác lần đầu tiên khao khát thèm muốn vì một cô gái khiến ông run rẩy những mấy ngày sau đó, nó còn khiến ông thẫn thờ vì tiếc đã không dám gì. Tất cả chỉ mới hé mở thiêng liêng.
Nghĩ cái quán tranh tre có nước chè, bánh chưng, thuốc lào... thế là ông Cam lại dậy liêu xiêu dắt xe đi. Phía trước dù chỉ rặt những điều hoang tưởng, nó cũng giúp con người ta vượt qua được mỏi mệt, khổ ải mà đi tiếp. Vẫn còn nửa con dốc lên. Đường vắng. Thỉnh thoảng mới nghe rù... xoẹt! Veo! Xe máy, ôtô to nhỏ vụt qua ông, biến gọn. Ông Cam thầm nghĩ chả hèn chi mà tai nạn giao thông nhiều!
Đỉnh dốc chói chang nắng. Chẳng có cái quán nào.
Ông Cam thẫn thờ, xuôi luội thả xe, buông người dính bệt xuống dưới một bóng cây ngả ườn ra mép đường. Bóng cây mảnh mai, chẳng thấm vào đâu với cái nắng gắt nên ông vẫn không chịu thôi ước hảo, còn lứt rứt mãi vì không có cái quán nào. Tại sao cái điều đơn sơ đến thế mà lại không thể có? Ông cứ nhìn nhìn như thể cứ nhìn mãi là sẽ thấy được cái quán. Đấy như chỗ này, hoặc chỗ kia, nó phải có cái quán tranh mới phải.
Thời này là thời nào mà ông Cam còn nghĩ ra được như thế? Thật đúng là ông bị hoang tưởng nặng. Người ta gọi ông Cam tâm thần. Chắc ông bị nặng mất rồi. Ông đang nghĩ gì? Ý nghĩ của một người không bình thường thì khó mà đoán được.
Đói. Mệt. Ông Cam lểu thểu đi tiếp. Ông nhìn nhìn xung quanh hai bên đường, mong một bóng cây, vạt cỏ để nằm vật ra mà ngủ một giấc. Ông mệt quá đi rồi. Chắc bà vợ đang lo. Rồi thằng con, nó rúc đi cả đêm, sáng ra lại lù lù dẫn cái xác dật dẹo về làm tội. Thế thì thà ông cứ hành xác thế này mà chết đi, còn hơn là một tháng ngần ấy ngày nhìn thấy mặt nó.
Ông Cam quăng mình xuống một chỗ mà ông thấy có thể ngủ được. Con người ta trong cảnh ngộ bi đát nhất có thể dở khôn dở dại như ông Cam lắm. Ông còng queo thiếp đi nom gần như một cái xác sắp bị tử thần mang đi.
Ông Cam tỉnh dậy. Chiều ngập mênh mông hoang vắng. Nỗi buồn bã rủ nhau kéo đến xâu xé ông. Ông chạy đi đâu thế này? Con đường tít tắp, chạy dài không muốn lôi kéo thêm nữa kẻ vô định như ông. Nó khuyên ông hãy quay về. Con đường về sẽ khiến ông dễ chịu hơn nhiều. Về với ngôi nhà nơi phố núi. Ông phải quen, phải chịu đựng thêm nữa, rồi ông sẽ tìm được cách tốt chống chọi cuộc sống vốn không chịu bằng phẳng, dễ chịu. Ông thấy mình hèn kém khi không tiếp ứng được với những cái mới của cuộc sống. Tất cả mới chỉ bắt đầu.
Hình như đó là những ý nghĩ tỉnh táo của người vẫn bị xem là tâm thần. Ý nghĩ từng làm cho con người ta héo rũ, cuồng dại, nhưng cũng chính nó vực người ta dậy, tươi tỉnh, mạnh mẽ.
Chỉ cần ý nghĩ thôi, ông Cam đã có được sức mạnh để trở về. Những ý nghĩ “thông thái” chan lên quãng đường dần dịu nhẹ bóng chiều. Chân ông Cam mải miết đạp, còn đầu ông sáng bừng trí nhớ. Ông nhớ được câu của một vị quan trọng nào đó trên tivi hôm nào: Nếu con người biết cách luyện tâm, rèn tâm cho tĩnh, cho sáng thì dù sống ở nơi đâu cuộc sống vẫn cứ đầy sức sống.
Và vị ấy nói gì nữa nhỉ: Người mạnh mẽ là người biết tự cứu mình. Tự cứu mình được là khó nhất. Người đó tất sẽ giúp được gì đó cho người đang gặp nguy khốn.
Hẳn rồi, ông sẽ luyện, sẽ rèn, sẽ bền bỉ để cứu ông, cứu con ông.
Chúa giấu thiên đường nơi địa ngục, và giấu địa ngục ở thiên đường. Dọc đường về ông lại nhớ thêm những điều ông đã được nghe đâu đó, hình như cũng là trên tivi.
Ông Cam thấy nhẹ nhõm trong lòng.
Và... Dãy đèn cao áp hiện ra. Đoạn đường còn lại trước mắt ông Cam sáng rực.
7-2007
Truyện ngắn 1.200: Câu chuyện không rõ hồi kết
Có người đàn bà sống ở túp lều nhỏ mé sông. Người ta cứ thấy bà đi dọc sông. Im lặng. Ánh mắt vô hồn. Dáng nhỏ thó, xiêu vẹo. Bà cứ lặng lẽ đi, sớm sương, nắng rát, hoàng hôn.
Có lúc tưởng chừng như cái thân hình tiều tụy kia đổ ụp bên sông, nhưng rồi như có một sức mạnh vô hình bà vẫn đi. Không ai hiểu vì sao? Không ai hiểu tại sao? Cái bóng ấy cứ lặng lẽ dọc con sông hun hút vô tận kia…
Cho đến một hôm câu chuyện được hé mở...
…Nơi một làng gần chợ Vẹo có người đàn ông góa vợ và người đàn bà góa chồng. Căn nhà cũ, bàn gỗ mọt đục gãy chân không chủ băng bó, chiếc máng hứng nước đặt ở chái, lóc tóc từng giọt khi mưa, cái gáo dừa, vại nước chỏng chơ góc vườn.
Người đàn bà tựa liếp, thỉnh thoảng đưa mắt hắt sang bên kia hàng rào nơi người đàn ông ngồi trên chõng gỗ, rít từng hồi thuốc lào, khói thuốc lào cuộn tròn lăn xa. Gặp gió nam thì ra cánh đồng, gặp gió tây bắc thì vào chuồng lợn, gặp gió đông thì ngân ngấn cánh mũi người đàn bà. Bây giờ gió đông. Người đàn bà khẽ ho một, người đàn ông ông ổng ho mười. Những tiếng ho sặc sụa. Con vện nâu chui qua hàng rào lúc bên này lúc bên kia, tự hỏi: hay là họ đánh tín hiệu cho nhau?
Những đêm hè, chiếc giường người đàn bà nằm cảm giác như có những đốm lửa tứa ra. Người đàn bà trằn trọc lăn mình bên này qua bên kia. Đôi vú căng nứt, tròn đầy, trễ nải... Người đàn ông ngồi bên bậc cửa, cởi trần. Đôi mắt người đàn bà hút vào kẽ hở của những thớ thịt rám nắng... Bên này tiếng thở dài một, bên kia tiếng thở dài mười. Con vện nâu lại chui qua hàng rào lúc bên này lúc bên kia, lại tự hỏi: hay là họ đánh tín hiệu cho nhau?
Mụ Tư góa, ba con, ưa chuyện nhất làng, miệng nhai trầu nhỏm nhẻm.
- Tôi hỏi khí không phải, thế nhà chị thủ tiết chồng được mấy năm rồi nhể?
- Gần năm năm ạ.
- Nhanh quá. Tôi cũng vậy, thấm thoắt ở giá gần 20 năm rồi. Cực chẳng đành. Vù một cái là hết một đời thôi (mụ Tư thở dài). Thằng cha Ngạn vợ chết cũng lâu rồi nhể? Nghe nói nhà chị cứ dúi mắt chúi mũi vào con vện nâu chui qua hàng rào... Cẩn thận kẻo miệng lưỡi… (nhìn người đàn bà thăm dò).
Người đàn bà mặt đỏ lên. Im lặng.
- Nói khí không phải, nhà chị đang ở độ tuổi hừng hực xuân. Nhưng đời cánh đàn bà ở cái làng Vẹo này là vậy.
- Dạ, thưa em hiểu.
Mụ Tư đi. Người đàn bà ngồi thừ im lặng. Đôi mắt trống không vô hồn nhìn mấy cái quần sờn đứt cúc ở cái chỗ "rắc rối" mà người đàn ông tên Ngạn vắt lên hàng rào ý chừng nhờ đơm hộ. Người đàn bà đến bên hàng rào, cầm chiếc quần rồi chạy tót vào nhà đóng sầm cửa lại. Qua một lùm cây mụ Tư nhìn, miệng đẩy đưa miếng trầu, nhổ một bãi nước miếng nhờn nhợt đỏ: "Đồ rửng mỡ. Bà ở vậy gần 20 năm khi xuân hơ hớ còn chẳng nhằm nhò gì, chứ cái ngữ ấy chưa sạch hơi chồng mà đã đòi đèo bồng thêm bước nữa...".
Hôm sau tin cái lỗ hàng rào mà con vện nâu thường chui qua được khoét rộng ra lan khắp thôn cùng ngõ hẻm. Miệng thế độc.
Chính chuyên chồng chết thì thờ
Không chính chuyên cứ cạo cái lờ bôi vôi.
…
Lê bước về nhà. Mặt người đàn bà tái sậm. Quăng chiếc rổ đựng mấy thứ linh tinh mới mua ở chợ vào một góc. Người đàn bà đứng tựa vách từ từ ngồi xuống. Nước mắt chảy. Khi ráo nước mắt, người đàn bà chợt vùng dậy lấy cái rổ bịt cái lỗ rào to tướng.
Rồi một ngày mưa, chẳng biết là đầu hạ hay cuối hạ, vì đã lâu rồi người đàn bà không còn biết đến khái niệm của thời gian. Nhìn cái ao sen trước nhà hoa sen tàn lụi, người đàn bà bỗng rùng mình lướt nhìn mình… Tiếng người đàn ông đột ngột vang lên:
- Đi!
Im lặng. Tiếng của những chú ễnh ương ưỡn lên trong mưa.
- Đâu?
- Đến nơi chỉ có tôi và đằng ấy.
Im lặng.
Con vện nâu bỗng sủa oang, hình như có kẻ rình...
Gà chưa gáy, mưa còn nặng hạt. Dân làng Vẹo mê mệt chìm trong giấc ngủ. Có hai chiếc bóng lẫn vào đêm. Họ lên một chiếc bè nứa vượt sông. Họ nghe đâu đó có tiếng chó sủa. Bè vẫn trôi cho kịp ra giữa dòng. Và rồi khi bè trôi ở một quãng xa cái làng Vẹo lắm rồi, để tránh nước xiết người đàn ông cho bè kè mạn bờ hơn. Lại nghe được tiếng chó sủa, tiếng sủa quen quen. Người đàn bà nhìn vào bờ, thật kỳ lạ, con vện nâu đã chạy theo bên bờ để đuổi bằng được chiếc bè. Người đàn bà bật khóc.
Người đàn ông bảo: "Để tôi đưa bè vào bờ đón nó!". Và rồi số phận như định đoạt, cách bờ độ trăm mét, bè đột ngột lọt vào vùng nước xoáy khủng khiếp. Người đàn ông và người đàn bà cùng bị hất xuống dòng nước. Người đàn ông thấy người đàn bà đang giãy giụa trong dòng nước xiết, ông gồng mình bơi lại. Cả hai vật lộn với nước xiết. Người đàn ông hiểu rằng chỉ còn một chọn lựa, ông gắng hết sức đẩy người đàn bà thoát ra khỏi vòng xoáy để rồi sức tàn lực kiệt ông bị dòng nước cuốn đi...
Thế rồi, người đàn bà được một gã bán thịt chó bên sông đưa cây sào ra cứu. Gã đã từng đi buôn chó ở chợ Vẹo nên biết bà - người đàn bà có nhan sắc ở làng Vẹo. Gã bảo gã sẽ im cái mồm coi đây là bí mật sống để bụng chết mang theo nếu bà, hoặc ngủ với gã một đêm, hoặc cho gã con vện nâu để thịt...Câu chuyện dừng lại ở đó và mãi mãi không ai biết được người đàn bà đã chọn điều gì.Truyện 1.127 chữ của LÊ THÙY VÂN
Bến
Bóng thị đổ xuống dòng sông dập dềnh, nhăn nheo. Cuộc sống là đôi bờ thu lại không có gì vui thú. Vài con cá đớp quẩn quanh mặt nước, mấy con chim chẽo chẹt hót trên ngọn cây, gã bìm bịp vỗ cánh phành phạch cũng không nhấc mình qua khỏi ngọn tre, cứ là là rồi đậu. Tiếng kêu âm âm: nóc, nóc… nóc cụt, ụt, ụt…
Chài ngái ngủ hỏi vợ:
- Mấy giờ rồi?
Thị Ngần nhìn về đằng tây một lát. Đáp:
- Chiều rồi.
- Đi nấu cơm ăn.
Hai bàn tay chống đùi đứng dậy, thị đi vào khoang lấy gạo. Cơm chín, thị lấy cho mỗi đứa một bát. Nhai cơm cho đứa nhỏ rồi dọn cơm cho Chài ăn. Hắn làm vài chén rượu nên khề khà. Ngần ăn xong bỏ bát. Hắn hỏi:
- Thôi à, ít thế.
- Ừ, mặc! Chán cơm.
Ăn xong Chài lùa lũ con vào khoang lấy ván chốt lại. Hai vợ chồng hắn bơi chiếc thuyền thúng ngược dòng sông. Đến một đoạn sông, nước quẩn hắn thả lưới. Quanh đi quẩn lại chỉ được vài con cá con con không đủ mồm mèo. Hắn rít một hơi thuốc lào. Dáng hắn ngả nghiêng theo luồng khói. Vục tay làm dăm ngụm nước sông, xong xuôi, hắn nói:
- Tôm ăn chập choạng, cá ăn rạng đông. Thôi về.
Sớm hôm sau hai vợ chồng lại đi thả lưới. Lại vẫn như hồi hôm: thuyền không, lưới không và cá cũng không. Trưa hôm đó Chài bơi thuyền đi nơi khác. Vừa chèo hắn vừa hát:
Thuyền chài
Suốt ngày nhìn nước
Chân không được bước
Miệng không được la
Hôm nay giận dỗi
Chống thuyền đi xa..
Thị Ngần hát:
Đời người dòng sông
Chèo đi chèo lại vẫn
không qua bờ
Sống cảnh dật dờ
Bóng chim tăm cá
Dòng nước con thuyền
Mưu sinh giăng lưới
Lội ngược về xuôi
Con trôi ơi hỡi con trôi
Ở ao thì hẹp ra đời
câu giăng.
Mấy đứa con nhí nhố:
Thuyền chài đánh cá
lanh canh
Đánh phải cục cứt nhe răng mà cười.
Chài quát:
- Sư bố chúng mày ngu. Sống ở sông nước mới là đáng sống.
Mặt trời chếch hướng tây soi xuống dòng sông đỏ lựng. Thuyền đậu ở một bến sông gần làng. Thị Ngần lại ra mạn thuyền ngồi. Chài đi thả đăng, về. Thấy Ngần vẫn ngồi ngẩn tò te, hắn hỏi:
- Nghĩ gì mà buồn thế?
Không thấy thị nói. Chài có ý nghi ngờ, hắn nhìn quanh quẩn. Sóng nước đuổi nhau. Phía xa thuyền một chút có một gã đàn ông đang tắm. Hắn ghen. Hắn là một thằng hay ghen. Giữa dòng vẫn ghen! Hắn tót lên thuyền túm tóc thị giật ngược lại đằng sau. Bất ngờ, thị la:
- Ối!
Hắn chỉ vào mặt thị:
- Đồ đĩ!
Hắn nói hổn hển:
- Mày thấy nó tắm, mày ra mày ngắm nó!
Hắn kéo cổ thị lôi vào khoang tát thêm cho dăm tát nữa. Chiều đó không nấu cơm. Tối đó không thả lưới. Hắn làm dăm chén rượu, kéo thêm dăm điếu thuốc lào rồi lăn ra ngủ.
Ba đứa con nằm ngủ vô tư thỉnh thoảng lại chép miệng vì đói. Thị Ngần khóc mãi rồi nằm ẽo rẹp như dải khoai, gối đầu lên đống bùng nhùng chăn màn, quần áo. Cái nào nhìn cũng giống hệt như tấm lưới. Nước chảy ì oạp dưới mạn thuyền. Thanh âm trong đêm chỉ là tiếng cá đớp ì oạp dưới mặt nước, rồi tắt lịm.
Sáng sớm. Chài ra đăng bắt tôm cá. Mang về hắn gọi Ngần dậy, mang cá ra chợ bán. Thị dậy hai mắt lồi ra, sưng húp! Thị tất tưởi thay một cái áo, mặc thêm một cái áo nữa vào vẫn không được. Hai cái áo, chung một chỗ rách. Thây kệ! Rách rưới mới đúng là dân thuyền chài! Thị ngúng nguẩy bước lên bờ. Đi được vài bước thị quay lại nhìn thuyền, quay đi, quay lại nhìn một lần nữa, lại nhìn thêm một lần nữa, cứ như thị dứt bỏ cái thuyền này ra đi mãi mãi. Thấy nghi ngờ, Chài đi theo.
Ngần ra đến đầu làng, chỗ đấy có một cái quán cháo lòng. Một gã trong quán ăn xong bước ra, mặt gay gay đỏ gọi:
- Này, mẹ đĩ thuyền chài ơi! Có tép không?
- Dạ thưa ông, cháu chỉ có tôm và bống thôi.
- Lại đây ông mua cho nào!
Thị hí hửng chạy lại lật cái mẹt cho lão ta xem. Lão xua tay ngăn lại:
- Không, không! Tao mua là mua mày cơ!
Thị ngu ngơ hỏi lại:
- Ông mua con mà làm gì?
- Nhà ông có đám đậu trồng ở xa nhà. Tao muốn mua mày để ở ngoài đấy làm bù nhìn cho chim quạ khỏi phá phách.
Chứng kiến cảnh này Chài buồn hẳn. Hắn trở về để chờ vợ. Trưa hôm đó cơm nước xong hắn lại nhổ neo chống thuyền đi xa.
Một khúc sông mới, rồi nhiều khúc sông mới hiện ra. Gió lồng lộng. Thả bơi chèo ra hắn nằm xuống, vật vã, run rẩy như người say thuốc lào. Dòng sông vẫn cứ chảy đi bình lặng yên ả, còn hắn thì chới với. Sông! Sông ư? Tại sao không phải là một cái bến nhỉ?
Truyện của NGUYỄN VĂN NINH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét