Lời từ biệt cuối cùng gửi vợ tôi.`LÝ QUANG DIỆU

“Lời từ biệt cuối cùng” của ông Lý Quang Diệu




Từ thời xa xưa, con người ta đã khơi nguồn và gìn giữ những tục lệ để bạn bè và người thân của người đã khuất cùng nhau chia sẻ nỗi đau mất mát.
Thay vì ghê sợ trước cái chết, họ cùng nhau bày tỏ lòng thành kính trước vong linh người đã bước sang thế giới bên kia, và đem đến sự bình yên cho những người ở lại.

Tôi còn nhớ khi bà ngoại tôi qua đời khoảng 75 năm trước. Lúc bấy giờ, suốt 5 đêm liền gia đình tôi quây quần bên nhau ca tụng cuộc đời bà, khóc thương bà, và tưởng nhớ bà, tất cả được thực hiện dưới sự dẫn dắt của một người chuyên khóc thuê.
Giờ đây, những tục lệ như vậy không còn nữa. Nỗi buồn hôm nay xin được thể hiện qua những câu chuyện về cuộc đời người vợ, người mẹ, và người bà của chúng tôi.
Tháng 10/2003, khi bà trải qua cơn đột quỵ đầu tiên, đối với chúng tôi dường như đó là một lời cảnh báo về ranh giới giữa sự sống và cái chết đã cận kề.
Tôi và bà đã ở bên nhau từ năm 1947, hơn ba-phần-tư đời người tôi có bà, và bà có tôi. Sự ra đi của bà đã để lại trong tôi một nỗi đau không thể diễn tả thành lời.
Nhưng hôm nay, khi nhìn lại chặng đường chúng tôi đã đi cùng nhau trong suốt bao năm tháng qua, tôi muốn ca tụng cuộc đời bà.
Những ngày đầu gặp gỡ
Khi ấy, tôi là một chàng trai trẻ bỏ dở đại học, không có công ăn việc làm ổn định. Bố mẹ bà bấy giờ cũng không thấy triển vọng gì ở chàng rể tương lai của họ.
Nhưng bà luôn tin vào tôi.
Ông Lý Quang Diệu và bà Kha Ngọc Chi khi còn trẻ. Ảnh: Google Images
Ông Lý Quang Diệu và bà Kha Ngọc Chi khi còn trẻ. Ảnh: Google Images
Tôi và bà nguyện sẽ cố gắng vì nhau. Tôi quyết định đến Anh vào tháng 9/1946 để học luật, còn bà quay lại trường Raffles, với quyết tâm giành cho bằng được suất học bổng do Nữ hoàng Anh trao tặng hàng năm cho sinh viên Singapore.
Chúng tôi biết chỉ một người trong cả nước có được vinh dự này. Tôi đã có điều kiện được sang Anh trước, và hi vọng chúng tôi có thể hội ngộ nếu bà giành được suất học bổng quý giá ấy. Nếu không, chúng tôi sẽ phải xa nhau trong 3 năm.
Tháng 6/1947, bà đã giành được suất học bổng ấy. Kể từ đó, chúng tôi không bao giờ xa nhau.
Tôi và bà làm đám cưới vào tháng 12/1947 tại Stratford-upon-Avon, khi đó chỉ có hai chúng tôi với nhau. Tại Đại học Cambridge, chúng tôi dồn hết tâm sức vào việc học luật.
Khi trở lại Singapore, chúng tôi cùng được nhận vào làm tại văn phòng luật Laycock & Ong, với vai trò hỗ trợ pháp lý. Không lâu sau, tôi và bà làm đám cưới chính thức, thể theo nguyện vọng của bạn bè và người thân.
Tháng 2/1952, đứa con trai đầu lòng của chúng tôi, Hiển Long, chào đời. Bà xin nghỉ một năm để chăm sóc con.
Vợ chồng ông Lý cùng cậu con trai đầu lòng Hiển Long - Thủ tướng đương nhiệm của Singapore. Ảnh: Google Images
Vợ chồng ông Lý cùng cậu con trai đầu lòng Hiển Long – Thủ tướng đương nhiệm của Singapore. Ảnh: Google Images
Cùng lúc đó, tôi được giao vụ kiện của Hội Liên hiệp các Nhân viên Bưu chính Viễn thông. Họ muốn có những điều khoản và điều kiện dịch vụ tốt hơn từ phía chính phủ. Sau hai tuần thương lượng, hai bên đã thỏa hiệp thành công.
Dù đang phải chăm sóc đứa con đầu lòng, bà vẫn tỉ mỉ đọc và chỉnh sửa bản thảo báo cáo của tôi, khiến nó trở nên đơn giản và dễ hiểu hơn.
Dần dần, bà đã thay đổi cách hành văn của tôi. Giờ tôi viết câu cú ngắn gọn, ở dạng chủ động. Sống cùng nhau lâu năm, chúng tôi thay đổi thói quen của nhau, cũng như tự thay đổi bản thân để hợp với tính cách người còn lại.
Tôi và bà đều hiểu rằng chúng tôi không thể cứ mãi là một đôi tình nhân mơ mộng được. Cuộc sống là một thử thách đằng đẵng với đầy rẫy những vấn đề cần giải quyết.
Chúng tôi có thêm hai đứa con, Vỹ Linh (1955) và Hiển Dương (1957). Bà đã nuôi dưỡng chúng trở thành những con người lịch sự, biết cư xử và để tâm đến người khác.
Nhờ có bà, không bao giờ các con ra đường với tâm thế cậu ấm, cô chiêu của Thủ tướng.
Thu nhập từ nghề luật sư của bà đủ để khiến tôi không phải lo lắng gì về tương lai của các con.
Bà đã chứng kiến cái giá tôi phải trả vì không học tiếng Trung khi còn nhỏ. Do đó, chúng tôi quyết định gửi các con đi học tại các trường lớp sử dụng tiếng Trung từ mẫu giáo. Bà cũng đảm bảo việc các con học tiếng Anh và tiếng Malay ở nhà.
Công dưỡng dục của bà đã cho các con một hành trang vững chắc cho cuộc sống tương lai tại một quốc gia đa ngôn ngữ.
Tôi và bà chưa bao giờ phải tranh cãi về cách nuôi dạy con cái hay về tài chính. Thu nhập và tài sản của chúng tôi đều đứng tên cả hai người. Chúng tôi luôn tin tưởng nhau tuyệt đối.
Bà luôn để ý đến những gì diễn ra xung quanh. Có lần, bà nhận thấy một số loài chim trong vườn Istana, nơi chúng tôi thường đi dạo mỗi tối, dần biến mất. Thay vào đó là chim mynah và lũ quạ.
Sau đó, cũng chính bà phát hiện ra rằng người quản lý khu vườn đã cho cắt cỏ dại và phun sương chống muỗi, tước đi nguồn thức ăn của những loài chim này. Bà cho dừng việc cắt cỏ và phun sương, và lũ chim lập tức trở lại.
Bà nắm rõ tên của từng loại hoa, kể cả tên khoa học của chúng. Bà sở hữu một vốn từ vựng khổng lồ. Bà từng theo học chuyên ngành Anh văn tại Đại học Raffles và là một người rất chăm đọc sách.
Jane Austen, J.R.R. Tolkien, Chiến tranh Hy Lạp cổ đại của Thucydides, tập thơ Aeneid bằng tiếng Latin của Virgil, Bách khoa toàn thư đồ ăn Oxford, Hải sản Đông Nam Á, Các loài cây bên vệ đường Malaya, hay Các loài Chim ở Singapore, sách gì bà cũng đọc.
Phu nhân Thủ tướng
Chính bà cũng giúp tôi soạn thảo Hiến pháp của đảng Nhân dân Hành động (PAP). Trong buổi họp chính thức đầu tiên của đảng vào ngày 4/11/1954, bà đã tập hợp phu nhân các thành viên sáng lập đảng để thêu nút thắt hoa hồng cho những người lên sân khấu.
Trong cuộc bầu cử đầu tiên tôi tham gia tại quận Tanjong Pagar, chính bà đã biến căn nhà của chúng tôi tại đường Oxley trở thành nơi tập kết ô tô đưa những người ủng hộ tôi ở quận này tới điểm bỏ phiếu.
Bà cũng từng cảnh báo rằng tôi không thể tin tưởng những thành viên liên hiệp giao thương cánh tả do Lim Chin Siong cầm đầu (ông Lim sau này đã châm ngòi cho nhiều cuộc bạo động tại Singapore và từng bị PAP bắt giữ – PV).
Bà có biệt tài đọc tính cách người khác. Bà vẫn nhắc tôi phải cẩn trọng với một số người nhất định; và quan sát của bà về những người này thường chính xác.
Khi Singapore chuẩn bị sáp nhập với Malaysia, chính bà đã nói với tôi rằng bước đi này sẽ không đem lại thành công vì các lãnh đạo Malaysia có một cách tiếp cận khác, nền chính trị của họ đề cao tính tập thể và nhất quán trong chủng tộc và tôn giáo.
Tôi đáp lại rằng chúng tôi phải làm như vậy vì không còn lựa chọn nào khác. Nhưng bà đã đúng. Chỉ chưa đầy hai năm sau khi sáp nhập, Singapore đã bị đề nghị phải tách khỏi Malaysia.
Năm 1965, khi ly khai chỉ còn là vấn đề thời gian, Bộ trưởng Tư pháp Eddie Barker đã soạn thảo sẵn một bộ luật. Nhưng trong đó ông không hề nhắc đến cam kết của Chính phủ về việc đảm bảo tiến hành thỏa thuận cung cấp nước kí với đại diện bang Johor (Malaysia).
Tôi lập tức nhờ bà bổ sung chi tiết trên. Chính bà đã soạn thảo cam kết này cũng như thay đổi chi tiết liên quan trong Hiến pháp Nhà nước Malaysia, trước khi trình lên Liên Hiệp Quốc.
Bà đã hết sức chỉn chu trong cách dùng từ. Thư kí Khối Thịnh vượng chung Anh quốc khi đó là Arthur Bottomley đã phải nói rằng, nếu sau này các nước nào có ý định tách rời, ông mong họ có thể thực hiện điều đó một cách chuyên nghiệp như Singapore và Malaysia.
Sau này, mỗi khi các nhà lãnh đạo Malaysia đe dọa cắt nguồn cung cấp nước, tôi luôn yên tâm rằng bản cam kết mạch lạc do bà soạn thảo sẽ giúp Singapore có được một phán quyết có lợi từ Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.
Những ngày cuối đời
Sau cơn đột quỵ đầu tiên, bà mất đi một nửa thị giác, gây ảnh hưởng tới việc đọc sách của bà. Nhưng bà lập tức học cách thích nghi, với sự trợ giúp của một chiếc thước kẻ. Bà vẫn đi công du cùng tôi, vẫn bơi đều đặn mỗi tối, và vẫn giữ liên lạc với gia đình và bạn bè.
Bà vẫn nghe những bản nhạc giao hưởng và những ca khúc bất hủ do bà sưu tập. Bà vẫn nói đùa rằng cuộc đời bà có thể được chia làm hai giai đoạn, trước và sau đột quỵ, như trước và sau công nguyên vậy.
Nhưng cơn đột quỵ thứ hai của bà, vào ngày 12/5/2008, nghiêm trọng hơn nhiều. Tôi cố gắng động viên bà, cùng với sự trợ giúp của các y bác sĩ và nhân viên trị liệu xuất sắc.
Đội ngũ y tá và nhân viên phục vụ đều yêu quý bà vì bà luôn quan tâm đến họ.
Khi ho, bà vội vớ lấy chiếc gối nhỏ trên giường để che miệng, vì bà không muốn lây bệnh sang cho họ.
Khi tôi hôn lên má bà, bà đều nhắc tôi đừng đến quá gần vì sợ tôi sẽ lây bệnh viêm phổi của bà.
Khi được tặng một bịch đào, bà dặn dò người phục vụ mang một quả về để tôi ăn tráng miệng sau bữa trưa.
Kể cả khi bệnh tật, bà vẫn xem tôi là tâm điểm cuộc sống của bà.
Vào cái ngày 24/6/2008 ấy, kết quả chụp CT phát hiện bà đã bị tai biến mạch máu ở cả vùng não bên phải. Không còn thuốc men hay phẫu thuật gì có thể cải thiện được tình hình nữa. Tôi đưa bà về nhà hôm 3/7/2008.
Các bác sĩ nói rằng chúng tôi chỉ còn vài tuần. Nhưng bà đã ở bên tôi thêm 2 năm, 3 tháng nữa, đến ngày 2/10/2010.
Trong những ngày tháng cuối đời, bà vẫn minh mẫn. Quãng thời gian này đã giúp tôi và các con dần chấp nhận được thực tế phũ phàng không thể tránh khỏi.
Vợ chồng ông Lý khi tuổi già. Ảnh: Google Images
Vợ chồng ông Lý khi tuổi già. Ảnh: Google Images
Hai năm cuối của cuộc đời bà thật khó nhọc. Bà không thể nói được nhưng vẫn có khả năng nhận thức những gì diễn ra xung quanh.
Bà không thể rời khỏi giường vì những cơn đột quỵ liên tiếp. Bà không thể nói được nhưng vẫn hiểu chuyện gì đang diễn ra. Hàng đêm, bà luôn đợi tôi đến ngồi bên bà, kể lại cho bà biết những việc tôi đã làm trong ngày, và đọc cho bà nghe những bài thơ bà yêu thích.
Rồi bà thiếp đi.
Trước khi ra đi, bà đã chia sẻ với tôi ước nguyện cuối cùng của cuộc đời, bà nhờ tôi dặn các con đặt hộp tro của chúng tôi bên cạnh nhau, cũng như tôi và bà đã ở bên nhau suốt cả đời này vậy.
Tôi đã lưu giữ biết bao kỉ niệm quý giá trong suốt 63 năm tôi và bà bên nhau. Nếu không có bà, tôi đã là một người hoàn toàn khác, với một cuộc sống hoàn toàn khác. Bà đã dành trọn cuộc đời cho tôi, và cho các con.
Bà luôn ở bên tôi khi tôi cần đến bà. Bà đã sống một cuộc sống tràn hơi ấm tình thương và đầy ý nghĩa.
Có lẽ tôi nên cảm thấy được an ủi vì những gì bà đã làm được trong 90 năm cuộc đời.
Nhưng lúc này đây, khi tôi và bà nói lời từ biệt lần cuối, trái tim tôi lại nặng trĩu nỗi buồn…
Lý Quang Diệu, 6/10/2010

Hơn ba mươi năm đứng đầu Chính phủ Singapore, cựu Thủ tướng Lý Quang Diệu đã  đưa mức thu nhập bình quân tính theo đầu người của người dân Singapore lên hàng cao nhất thế giới. Có ai biết khởi nguồn thành công của người cha đẻ Singapore xuất phát từ nỗi thất vọng mang tên Kha Ngọc Chi.


Ấy vậy mà, chuyện tình của ông với người vợ Kha Ngọc Chi lại có nhiều yếu tố lãng mạn, đầy ắp những kỷ niệm và chan chứa tình cảm, có thể xếp vào loại rất đỗi “thi vị” như thể đã từng xảy ra với một số thi nhân các nước phương Tây thế  kỷ XIX.
Đời người vốn ngắn ngủi, ông Lý đã theo bà Kha trở về với cát bụi, nhưng chuyện tình đẹp của họ sẽ mãi mãi được ghi nhớ.
Yêu nhau mấy núi cũng trèo
Không sai nếu nói rằng chuyện tình của người sáng lập nên đào quốc Sư tử lăng mạn và thi vị không thua kém bất cứ một thiên tình sử nào trên màn bạc.
Họ đến với nhau theo đúng với cái nghĩa duyên phận, trai anh hùng gặp gái thuyền quyên.
Thuở ban đầu, họ là đôi bạn cùng theo học luật tại trường Đại học Raffles. Cuối học kỳ đầu tiên của năm thứ nhất, chàng sinh viên Lý Quang Diệu xếp đầu trường về môn toán. Với chàng, điều đó không có gì ngạc nhiên như cái sự nghiễm nhiên nó phải thế.
Tuy nhiên, đã có kẻ dám “đánh” vào niềm kiêu hãnh ấy của chàng. “Nhưng tôi bàng hoàng nhận ra rằng tôi không chiếm vị trí số 1 cả môn tiếng Anh lẫn môn kinh tế. Tôi xếp sau một cô tên Kha Ngọc Chi. Tôi thất vọng và cảm thấy khó chịu”, ông Lý Quang Diệu kể trong hồi ký Câu chuyện Singapore: 1923 -1965 đã được xuất bản năm 1998.
Nhưng chính bản thân chàng trai họ Lý cũng chẳng thể nào lý giải được lý lẽ của trái tim mình, khi để cám xúc của mình với cô nàng họ Kha ấy, chuyển hướng 360 độ, từ khó chịu sang cảm phục, thương mến rồi... yêu.
Khi tình cảm của mình được ngưòí bạn gái nồng nhiệt đáp lại, Lý Quang Diệu cảm thấy cuộc đời tràn đầy hưng phấn.
Đã có lúc, trong cảnh hoàng hôn đang dần dần bao trùm lên cảnh vật, Lý Quang Diệu ghé tai Kha Ngọc Chi đọc cho cô nghe một bài thơ tình nồng thắm anh vừa sáng tác.
Trước đây, gia đình Kha Ngọc Chi từng ép cô phải kết hôn với một người. Kha Ngọc Chi đã nhất quyết khước từ và cô nhớ rằng, cô đã vừa khóc vừa thông báo cho Lý Quang Diệu tin này.
Đó có lẽ là lúc cô cảm thấy trái tim cô đã thuộc về Lý Quang Diệu. Với cả hai con người tài năng và giàu cá tính ấy, đã yêu rồi là yêu quyết liệt, bất chấp mọi cấm cứ, ngăn cản và khoảng cách giàu nghèo.
Dù tồn tại khoảng cách tuổi tác (Kha Ngọc Chi lớn hơn Ly Quang Diệu hai tuổi rưỡi) nhưng theo nhận xét của Kha Ngọc Chi thì trí tuệ của Lý Quang Diệu phát triển hơn bà cả... mấy mươi năm.
Chính sự chân thành, mạnh mẽ và kiên định đã khiến họ quyết tâm gắn cuộc đời mình với nhau bằng mọi giá.
 Tháng 9,1946, Lý Quang Diệu sang Anh du học tại Trường Đại học Cambridge danh giá.
 Tháng 7.1947, Kha Ngọc Chi cũng giành được học bổng du học ở Cambridge. Một chi tiết rất đặc biệt trong mối quan hệ của Lý Quang Diệu và Kha Ngọc Chi là hai người tự tổ chức lễ đính hôn trong một nhà hàng nhỏ ở Stratford-upon-Avon vào tháng 12.1947.
Khi về Singapore, chàng trai đến nhà “nhạc phụ” xin cưới con gái của ông khiến cả nhà được phen... hết hồn.
Và mãi tới ngày 30.9.1950, hai người mớí thực sự có nhau trong một hôn lễ chính thức, với sự có mặt và chúc phúc của bố mẹ, họ hàng hai bên.
Sau khi lập gia đình một thời gian, Lý Quang Diệu trở thành Thủ tướng Singapore năm 1959 khi mới 36 tuổi.
Điều đặc biệt là trong vai trò Đệ nhất phu nhân, Kha Ngọc Chi lại không hề tham gia vào công việc triều chính, chỉ một lòng tận tụy phục vụ chồng con trong những việc nội trợ đời thường.
Kha Ngọc Chi luôn là nguồn động viên, an ủi lớn lao đối với chồng. Cùng tốt nghiệp ngành luật, nếu như trong các mối quan hệ, Lý Quang Diệu luôn dựa vào lý lẽ, thì trái lại, Kha Ngọc Chi lại dựa vào linh cảm nhiều hơn.
Về mặt này, theo nhìn nhận của chính Lý Quang Diệu thì “Chi luôn luôn đúng khi nhìn nhận một con người” và “Tôi rất coi trọng ý kiến của vợ mình trong chuyện đối nhân xử thế”.
Ngày 10.2.1952, đứa con đầu lòng của họ ra đời. Lý Quang Diệu tham vấn một chuyên gia phiên dịch tại tòa án tối cao Singapore để tìm cái tên hay nhất cho con. Vị chuyên gia phán rằng đứa  bé ra đời vào ngày màu nhiệm nhất trong năm âm lịch, ngày thứ 15 của kỳ trăng đầu tiên trong năm con rồng. “Vì thế chúng tôi quyết định đặt tên con là Hiển Long, tức con rồng vinh hiển”.
Sau đó, họ sinh thêm con gái Vỹ Linh (1955) và con trai út Hiển Dương (1957). Cả ba người đều học rất giỏi và nhanh chóng gây dựng được sự nghiệp lớn: Hiển Long hiện nay là đương kim Thủ tướng Singapore, Vỹ Linh là bác sỹ thần kinh nhi nổi tiếng, còn Hiển Dương là một doanh nhân thành đạt.
Sau Thế chiến 2, tình hình thế giới biến chuyển dồn dập và Singapore cũng không phải ngoại lệ, nhất là khi Lý Quang Diệu cùng các đồng chí tham gia thành lập đảng chính trị PAP.
Giữa những lúc tình hình căng thẳng nhất, Lý Quang Diệu thường lái xe đưa vợ con lên cao nguyên Cameroon ở Malaysia để nghỉ ngơi và cũng để tránh những tai tiếng, ảnh hưởng chính trị.
Cựu Thủ tướhg cùng vợ rất mực yêu thương con cái, luôn dạy các con cách hành xử đúng, sống có kỷ  luật, biết kính trên nhườhg dưới cho dù khi chào đời đã là “con Thủ tướng”.
Hai người không muốn con cái ỷ  thế bố mẹ mà biết tự đi trên đôi chân của chính mình. Vi vậy, Lý Quang Diệu, sau khi nhậm chức Thủ tướng, đã quyết định không để gia đình sống trong khu vực dành cho giới  chính khách, vì lo ngại ở trong “môi trường chính tri” sẽ làm sai lệch cách nhìn của lũ trẻ về cuộc sống.
Chỉ có cái chết mới chia lìa lứa đôi
Nhiều người trên thế giới biết đến Lý Quang Diệu như một chính khách và là một bộ óc kinh tế lỗi lạc, có chút khô cằn và độc đoán.
Thế nhưng mỗi đêm, ông Lý thường đến ngồi bên người vợ để kể chuyện và đọc thơ cho bà nghe, kể từ sau cơn đột quị khủng khiếp vào ngày 12.5.2008 đã khiến người phụ nữ của đời ông phải nằm liệt giường và không thể nói được nữa.
Đó thực sự là nhũng phút giây tĩnh lặng trong đời hai con người, mang về ký ức những  ngày đẹp nhất họ ở bên nhau.
Bỏ đi những bộn bề công việc, Lý Quang Diệu trở lại hình ảnh chàng trai tuổi thanh xuân đem lòng yêu cô gái họ Kha, để rồi trải qua nhữhg biến cố thăng trầm mới chạm tới bến bờ hạnh phúc.
Ông từng nói: “Chúng tôi rồi sẽ phải ra đi. Tôi không chắc ai sẽ ra đi trước. Vì vậy tôi nói với bà ấy rằng, tôi đang nhẩm lại lời nguyền lứa đôi: Hãy cứ yêu nhau đi, gìn giữ và vun đắp cho tình thêm nảy nở. Chẳng sợ khó khăn, chẳng ngại đau khổ...”.
Trong đại gia đình họ Lý, Quang Diệu là người đau khổ nhất trước tình cảnh của Kha Ngọc Chi, nhưng chỉ âm thầm chịu đựng mỗi ngày.
Khi bà lâm cảnh “chân mỏi tay run”, mỗi bữa cơm ông Lý ngồi bên cạnh, nhặt từng hạt cơm bà đánh rơi, bỏ vào chén mình và ăn ngon lành.
Chọn cho bà một sự ra đi nhẹ nhàng hay cứ tồn tại trong đớn đau là điều dằn vặt ông.
Lý Quang Diệu luôn hiểu hơn bất cứ ai hết về nghĩa tình vợ chồng bao năm qua của đời mình: để người mình yêu ra đi trong thanh thản, nhưng rồi sẽ buồn và cảm thấy trống vắng. Nỗi đau tinh thần cứ thế dày vò ông.
Trong các cuốn hồi ký của mình, ông Lý Quang Diệu không bao giờ quên nhấn mạnh rằng trong cuộc đời ông, may mắn lớn nhất không phải là trở thành một chính khách mà là có bên mình một người vợ “mẫu mực và thuần khiết”, luôn ý thức mình là ngưòí “nội tướng” đảm đang để chồng “ra quân” trăm trận trăm thắng.
Với ông Lý, bà Kha là chỗ dựa của gia đinh: “Bởi tôi biết Chi có công việc của một luật sư, và nếu cần bà ấy có thể tự lo cho mình và các con, nên tôi không phải lo lắng về tương lai của bọn trẻ”.
Điều đó giúp ông toàn tâm toàn ý cho sự nghiệp chính trị của bản thân và tương lai của đất nước.
Suốt 31 năm ông làm thủ tướng (1959 -1990), bà lặng lẽ làm người hỗ trợ đắc lực trong quan hệ đối nội lẫn đối ngoại của ông, bằng trực giác rất tinh anh khi đánh giá một con người.
Nhưng tất cả chừng ấy chưa đủ để cuộc tình Lý Quang Diệu - Kha Ngọc Chi “xứng  tầm” huyền thoại.
Phần đáng giá nhất của cuộc tình này lại nằm ở đoạn kết, khi mà cả hai nhân vật chính đã bước qua cái tuổi xưa nay hiếm, sức đã tàn, lực đã kiệt nhưng cái tình họ dành cho nhau thì thật đáng nể phục.
Từ khi bà Kha Ngọc Chi bị đột quị cho đến ngày qua đời, cựu Thủ tướng trở thành một người chồng hết sức chu đáo, chăm lo miếng ăn giấc ngủ cho vợ. Ông đã làm tấ cả những gì tốt nhất cho bà, không để nỗi đau quật ngã mình và rằng “chỉ có cái chết mới chia lìa lứa đôi”.
5 giờ 40 phút chiều 2.10.2010, bà Kha Ngọc Chi nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng tại nhà riêng.
Đêm 4.10, sau khi khách đã ra về hết, ông Lý Quang Diệu bước từng bước chậm chạp đến bên bà.
Gần như bất động, ông đứng nhìn vào bức ảnh đặt ở chân quan tài hồi lâu. Người ta không thấy nước mắt ở người đàn ông này.
Trước khi nắp quan tài được đóng lại để đưa lên giàn hòa táng, ông Lý đặt lên ngực vợ một bông hồng đỏ, và bước thêm mấy bước đến gần hơn, lặp lại nụ hôn từng  trao cho bà ở hôn lễ cách đây 50 năm, rồi khó nhọc đứng dậy và lặng lẽ quay đi.
Ổng Lý đã kết thúc bài điếu văn bà Kha bằng nhữhg câu chữ khiến mỗi người đều phải rơi lệ:
“...Hơn ba-phần-tư đời người tôi có bà, và bà có tôi. Sự ra đi của bà  đã để lại trong tôi một nỗi đau không thể diễn tả thành lời... Bà đã chia sẻ với tôi ước nguyện cuối cùng, bà nhờ tôi dặn các con đặt hộp tro của chúng tôi bên cạnh nhau, cũng như tôi và bà đã ở bên nhau suốt cả đời này vậy... Bà đã sống một cuộc sống tràn hơi ấm tình thương và đầy ý nghĩa. Có lẽ tôi nên cảm thấy được an ủi vì những gì bà đã làm đươc suốt 90 năm qua. Nhưng giờ đây, trong giây phút biệt ly cuối cùng này, trái tim tôi lại nặng trĩu nỗi buồn...
Nguyễn Tuyết – Lâm Anh / An ninh thế giới

Không có nhận xét nào: